• Nhóm kín víp prồ, đỉnh của chóp 👉 xamvn

Kiến thức Hoàng đế Gia Long và công cuộc thống nhất đất nước thu giang sơn về 1 mối, đất nước trọn niềm vui

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Gia Long tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh), còn có húy là Chủng (種) hay Noãn (暖), là con trai thứ ba của hoàng tử Nguyễn Phúc Luân với bà Nguyễn Thị Hoàn, và là cháu nội của Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ông sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (ngày 8 tháng 2 năm 1762), mất ngày 19 tháng 12 năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), truyền ngôi cho Hoàng Thái tử Nguyễn Phúc Đảm tức vua Minh Mệnh (Minh Mạng).

Có thể nói cuộc đời Ánh (Gia Long) là sự nghiệp của một võ tướng trên lưng ngựa từ đứa con nít 12 tuổi mồ côi cha mẹ bị giặc Huệ đem ngàn binh mã đi lùng giết mà số trời bắt Ánh phải sống trưởng thành tới võ tướng cầm quân đánh bại Huệ trận Thị Nại.

Năm 1777 khi mới 15 tuổi ông Ánh đã phải bôn tẩu gian nan, cùng với gia tộc chúa Nguyễn bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục ngôi vị. Cho đến nay có khá nhiều quan điểm trái ngược về Nguyễn Ánh, nhiều người cho rằng ông bắt tay với Xiêm La, Pháp và nhà Thanh để chống lại Tây Sơn. Việc cầu viện ngoại bang nhằm khôi phục vương quyền đã khiến Nguyễn Ánh bị chỉ trích rất nhiều. Tuy nhiên khách quan mà nói, ông là người có đóng góp không nhỏ trong việc thống nhất giang sơn, kết thúc cuộc nội chiến liên miên nhiều thế kỷ ở Việt Nam.

Năm 1792, vua Quang Trung (Huệ) mất, nội bộ nhà Tây Sơn đánh nhau kinh hoàng, suy yếu, lợi dụng cơ hội đó Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn. Năm 1802 ông chính thức lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại quân chủ mới - Triều Nguyễn[1].


Chân dung vua Gia Long. Nguồn: Sưu tầm
Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) ông cho lập đàn ở đồng An Ninh, hiệp tế trời đất, kính cáo việc đặt niên hiệu. Hôm sau kính cáo vong linh liệt thánh, lễ xong vua ngự ở điện, nhận lễ chầu mừng. Đặt niên hiệu là Gia Long, đại xá cho cả nước, ban chiếu cùng 6 điều thi ân.

Năm 1804, sau khi lên ngôi sắp đặt chính trị ổn định, vua Gia Long sai Lê Quang Định cùng các sứ thần sang nước Thanh cầu phong và đề nghị công nhận quốc hiệu Nam Việt với ý nghĩa “Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng lớn, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã vỗ yên được toàn cõi Việt, nên cho khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt”. Nhưng vua nước Thanh cho rằng chữ Nam Việt dễ bị nhầm lẫn bao gồm cả Đông Tây Việt[2] nên không muốn cho. Vua Gia Long hai ba lần phục thư biện giải, lại nói nếu không cho thì không thụ phong. Vua nhà Thanh ngại mất lòng, mới cho dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước[3].

Ngay sau khi được nhà Thanh công nhận quốc hiệu, ngày Đinh Sửu, tháng 2 năm Giáp Tý (1804) vua Gia Long cho làm lễ kính cáo Thái miếu. Xuống chiếu bố cáo khắp trong ngoài rằng “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta đem tấm thân nhỏ bé lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ tướng, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”. Sau đó hạ chiếu thông cáo đến các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng đều biết[4].

10-02-002-075821-100220-32.jpg

Đặt quốc hiệu Việt Nam năm Gia Long thứ 3 (1804). Nguồn: Đại Nam thực lục, Đệ nhất kỷ, quyển XXIII
Mặc dù đã chính thức xưng vương, đặt niên hiệu vào năm 1802, nhưng với tư tưởng của người có chí lớn, muốn thể hiện quyền uy thiên tử, theo đề nghị của quần thần, năm 1806 vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hòa. Trong bản Chiếu ban bố việc lên ngôi Hoàng đế có lời rằng: Trẫm nghĩ: Đức của người làm vua giống như mặt trời, vương giả lấy đó mà soi sáng; đạo thống như trời, thánh nhân nhờ đấy mà noi theo phép tắc. Lớn lao thay nhà nước ta, bao trùm cả cõi Nam! Các thánh đời trước, dựng nghiệp dốc lòng, gắng sức xây nền, hai trăm năm lẻ, thánh hiền tiếp nối, công đức rạng danh… Trẫm nhờ uy linh tông miếu xã tắc và sức mạnh của quần thần, phá được quân thù, khôi phục nghiệp cũ, mở mang bờ cõi, lập nên công lớn, thực là chức phận của Trẫm, đâu dám ở ngôi cao. Nhưng các thân công đại thần nhiều lần tâu rằng trách nhiệm yên dân trời đã giao cho Trẫm mà lịch số vô cùng cũng duy có Trẫm nối dõi, cố xin Trẫm lên ngôi Hoàng đế để tỏ rõ đại thống. Vì vậy, Trẫm định ngày mồng 7 tháng này kính cáo Trời Đất, ngày 9 kính cáo Tôn Miếu, ngày 12 tiếp nhận sách văn, tôn xưng Hoàng đế[5].

Sau khi lập quốc, Gia Long cho lập danh sách truy tôn, tặng thưởng các công thần theo phò vua khai quốc. Vua ban Dụ rằng: Đấng vương giả dựng nghiệp truyền mối, trước phải tôn thờ người có đức, báo đáp người có công. Nhà nước ta trăm trận vất vả mới khôi phục được non sông, đành là mệnh trời yêu mến, nhưng cũng thực là nhờ sức của các tướng sĩ cùng ta chống kẻ thù chung. Phàm người có chiến công, còn sống thì đã được vinh gia tước trật, duy những người vì nước bỏ mình, trong lúc can qua bận rộn, chưa kịp truy phong, mà sổ ghi công trạng vẫn còn, thì đều cho các quan chưởng lãnh và chánh phó trưởng chi [của các viên đã mất] tới trước điện hầu nghe bàn công truy tặng, để cho yên ủi hồn thơm đã khuất[6]. Lại ra lệnh thu dùng con cái, không có con thì dùng cháu, không có cháu thì dùng em, tùy theo công lao nặng nhẹ, hoặc trao cho quan chức, hoặc cho miễn binh dao trọn đời. Sau đó sai trấn Phiên An chọn đất xây đền, đặt tên là đền Hiển Trung, thờ những công thần, lại sắc cho Bộ Lễ bàn định điển lễ thờ tự, hằng năm xuân thu làm lễ tế. Đặt phu coi đền 25 người.

Ngoài ra ông còn cho sửa sang phả điệp tông thất, kê khai con cháu trong phả hệ. Bản Chiếu ngày 15 tháng 12 năm Gia Long thứ nhất (1802) chiếu cho những người thuộc dòng Nguyễn Phước tộc biết: Từ khi Đức Tiên Thái Vương[7] dựng nước, Nam giao thánh thần truyền nối trải được tám, chín đời, các chi phái sinh sôi phồn thịnh. Khi nước nhà mới khởi nghiệp mở mang, tông tính nhiều phen bôn ba. Nay nhờ liệt thánh rủ lòng che chở, bình kẻ tiếm loạn, duy việc các thế hệ thân thích trong dòng họ đến nay vẫn chưa được rõ ràng. Vì vậy nay ban đặc chiếu căn cứ từ Đức Tiên Thái Vương cùng Liệt Tiên Thánh Vương cho đến nay chiếu theo phả điệp của hoàng tộc phụng truyền cho công tính các chi phái đều kê khai rõ ràng các đời, phả hệ phỏng từ Đức Tiên Thái Vương sinh hạ được công tử là hiền ngôi, ai là dòng đích, ai là dòng thứ, nối sinh con cháu các thế hệ được bao nhiêu, nhận ân điển của liệt triều cũng vậy. Hễ công tính các chi phái hiện còn bao nhiêu, ai đã được dự vào hàng quan chức, ai chưa được đều phải kê khai đầy đủ theo các thế hệ trước, nghiên cứu rõ ràng đích thực, sửa sang phả điệp trình lên để xem xét[8].

Sắp xếp ổn định xong việc định đô, đặt niên hiệu, quốc hiệu, tôn xưng đế hiệu, báo đáp công thần, sửa sang tông phả; Hoàng đế Gia Long bắt tay vào công cuộc xây dựng thiết chế bộ máy chính quyền, chế định triều nghi, luật pháp, binh ngạch, khoa cử… Công cuộc khai quốc của ngài còn rất nhiều việc phải làm.
Đón xem Kỳ II: Công cuộc kiến thiết triều Nguyễn


[1] Trên thực tế mùa xuân tháng Giêng năm Canh Tý (1780) Nguyễn Ánh đã xưng vương tại Gia Định để chính danh khi tiễu phạt Tây Sơn. Tuy nhiên vẫn dùng niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê và ấn Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh trấn chi bảo từ thời Hiển tông Hiếu minh hoàng đế làm bảo tỷ truyền quốc. Vì vậy năm 1802 mới là năm chính thức bắt đầu triều đại Gia Long và cũng là năm bắt đầu của triều Nguyễn.
[2] Tức vùng Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Hoa.
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, trang 580.
[4] Đại Nam thực lục, đã dẫn, trang 588.
[5] Đại Nam thực lục, đã dẫn, trang 665.
[6] Đại Nam thực lục (Tiền biên), đã dẫn, trang 277.
[7] Tức Chúa Tiên Nguyễn Hoàng.
[8] Châu bản triều Nguyễn, Gia Long tập 1, tờ 2-3.
 

Lê Nữu Vượng

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Sau một phần tư thế kỷ bôn ba, bắt đầu cầm quân đánh dẹp khi mới tròn 15 tuổi, 40 tuổi mới giành được ngôi vị, hơn ai hết vua Gia Long ý thức rất rõ về quyền lực và những mất mát tổn thất khi tranh giành quyền lực. Vì vậy ngay lập tức ông bắt tay vào công cuộc thiết chế bộ máy, xây dựng chính quyền, luật pháp, quy định nghi thức trong triều… Mục đích vừa để thiết lập một tổ chức nhà nước hoàn thiện nhưng trên hết là củng cố quyền lực của triều Nguyễn, một triều đại vừa mới được khai sinh.
- Hành chính:

Tại trung ương, vua Gia Long thiết đặt theo chế độ cũ của nhà Lê tức vẫn gồm Lục Bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Đứng đầu các Bộ là Thượng thư, giúp việc cho Thượng thư có Tả Hữu Tham tri, dưới có Tả Hữu Thị lang và các thuộc viên Lang trung, Viên ngoại lang, Chủ sự, Thư lại… Ngoài Lục Bộ còn có hệ thống cơ quan chuyên môn tham mưu giúp việc cho nhà vua như: Tam Nội viện[1] (tức Thị thư viện, Thị hàn viện, Nội hàn viện), Thượng Bảo ty, Đô Sát viện, Thái Y viện, Hàn Lâm viện, Khâm Thiên giám. Ngoài ra vua cho đặt ra Tào chính là cơ quan coi giúp việc thuế khóa, vận tải; đứng đầu có các viên Tào chính sứ và Tào chính phó sứ. Đứng đầu triều không đặt chức danh Tể tướng[2], nhà vua cũng không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ đặt ngôi Hoàng phi và cung tần.

Tại địa phương, vua Gia Long vẫn giữ nguyên cách phân chia hành chính từ thời các Chúa Nguyễn. Ở đàng Ngoài các cấp hành chính từ cao xuống thấp lần lượt là trấn, phủ, huyện, xã và ở đàng Trong là trấn, dinh, huyện, xã; dưới xã có thể có thôn, trại, ấp, ngoài ra đặt thêm cấp “tổng” ở trung gian giữa huyện và xã. Hai khu vực Bắc bộ và Nam bộ được phân thành các trấn và hợp thành Tổng trấn do 1 viên quan Tổng trấn đứng đầu như Bắc thành Tổng trấn, Gia Định Tổng trấn. Trong đó Bắc thành có 11 trấn gồm 5 nội trấn là Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây và 6 ngoại trấn là Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hoá, Quảng Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Trấn Gia Định (năm 1808 vua Gia Long đổi là Gia Định thành) gồm có 5 trấn là Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh (sau chia ra Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường (sau đổi là Định Tường) và Hà Tiên. Khu vực Trung bộ từ Thanh Hoá đến Bình Thuận phân cấp hành chính theo kiểu quân khu, trong đó lấy Quảng Đức là nơi có Kinh đô làm trung tâm. Đặt Quảng Bình, Quảng Trị làm Hữu dực; Quảng Nam, Quảng Ngãi làm Tả dực gọi là các dinh và gộp 2 cánh Tả dực, Hữu dực với dinh Quảng Đức thành Trực lệ, tạo thành một khu vực quân sự mang tính chiến lược bao bọc và bảo vệ Kinh đô. Ngoài 5 dinh trực lệ, các trấn phía Bắc kinh thành gồm Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh gọi là Hữu kỳ; các trấn phía Nam từ Bình Định đến Bình Thuận gọi là Tả kỳ.

Việc thiết triều, vua Gia Long quy định mỗi tháng thiết đại triều 2 lần tại điện Thái Hòa vào các ngày mồng 1 và rằm. Các quan từ Lục phẩm trở lên mặc áo mũ đại triều sắp hàng vào lạy chầu. Thiết thường triều 4 lần tại điện Cần Chánh vào các ngày mồng 5, 10, 20, 25; quan từ Tứ phẩm trở lên mặc áo mũ thường triều sắp hàng vào lạy chầu. Những ngày thiết đại triều tại Hoàng cung, quan các thành và dinh trấn bên ngoài đều phải đến Hành cung ở địa phương bái vọng. Ngoài ra vua Gia Long còn chuẩn định nghi thức trong các đại lễ khánh chúc của triều đình; nghi thức trang phục, nghi thức vào chầu; quy định dùng bảo tỷ, tiền tệ…

Việc quản lý ruộng đất, nhân khẩu, năm Gia Long thứ 3 (1804) nhà vua xuống chiếu cho các tỉnh từ Nghệ An, Hà Tĩnh đến các trấn ở Bắc thành kê khai làm địa bạ (sổ ruộng đất) đệ nộp. Năm Gia Long thứ 9 (1810) bắt đầu cho lập Địa bạ từ Quảng Bình trở vào Nam. Mục đích lập Địa bạ là để quản lý ruộng đất, thu tô thuế, vạch định ranh giới giữa các đơn vị hành chính và tránh sự tranh chấp ruộng đất. Theo quy định, mỗi địa bạ được làm thành 3 bản Giáp, Ất, Bính; làm xong gửi nộp lên Bộ Hộ đóng dấu. Bản Giáp để lưu chiểu ở Bộ Hộ, bản Ất lưu chiểu ở thành trấn, bản Bính cấp cho các xã giữ làm bằng. Địa bạ được lập một cách có hệ thống và theo mẫu thống nhất trong phạm vi cả nước. Ngoài ra còn có Đinh bạ là loại sổ để quản lý dân đinh, tuyển lính và một số loại thuế đánh trên đầu người. Theo quy định “phàm suất đinh từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, chiểu thực khai rõ đầy đủ họ, tên, năm sinh chép vào sổ. Các quan văn võ khai rõ chức tước, phẩm hàm; những người đỗ đạt từ Hương cống trở lên; những người là dòng dõi con cháu các công thần triều trước để chiểu theo hạng cho miễn sai dịch” [3]. Đinh bạ cũng được làm thành 3 bản giáp, ất, bính đệ trình.

- Luật pháp:

Ngay năm 1802 khi mới định ngôi xong, vua Gia Long đã sai Đình thần tham khảo Luật nhà Lê để biên soạn luật lệnh cho triều đình gồm 15 điều. Mùa thu tháng 7 năm Ất Sửu (1805) vua lại đề xuất biên soạn bộ luật hoàn chỉnh làm căn cứ cho hoạt động hình pháp. Sau đó Hình bộ Thượng thư Nguyễn Tử Châu dâng bản Hình luật, vua triệu các văn võ đại thần tuyên đọc và tự thân xét định. Tuy nhiên bộ hình luật này chưa được ban hành.

Năm Gia Long thứ 10 (1811) vua lại sai Đình thần soạn định luật lệ, lấy Nguyễn Văn Thành làm Tổng tài, Vũ Trinh làm Toản tu, Trần Hựu làm Hiệp biện Toản tu để biên soạn. Tháng 7 năm thứ 11 (1812) Luật soạn xong gồm 22 quyển, 398 điều. Trong đó Hình danh và Phàm lệ 45 điều, luật Lại 27 điều, luật Hộ 66 điều, luật Lễ 26 điều, luật Binh 58 điều, luật Hình 166 điều, luật Công 10 điều. Vua tự tay xét định và làm bài tựa đặt ở đầu. Bài tựa ngự đề viết: “Trẫm xét thấy bậc thánh nhân xưa cai trị đất nước bằng hình phạt và đức hóa. Hai việc này xưa nay đều không thể thiếu… [Trẫm] xem lại hình luật của các đời thì thấy đời Lý, Trần, Lê của nước Việt ta được hưng vượng, đời nào cũng có điển chế luật pháp của đời ấy. Nhưng đầy đủ nhất phải kể đến đời Hồng Đức [nhà Lê]. Các đời Hán, Đường, Tống, Minh của Bắc triều dựng nên luật lệnh, đời nào cũng có sửa đổi, nhưng hoàn bị nhất là đời Thanh. Vì vậy Trẫm sai các quan trong triều chuẩn theo pháp điển luật lệnh, tham khảo luật thời Hồng Đức và của nhà Thanh, cân nhắc tuyển chọn xem điều nào đáng dùng, điều nào đáng bỏ, biên tập thành sách. Trẫm tự mình xem xét, sửa chữa cho đúng đắn, để ban hành khắp thiên hạ”[4]. Luật bắt đầu được ban hành và áp dụng năm Gia Long 12 (1813), năm thứ 14 (1815) in thành sách luật ban bố rộng rãi gọi là Hoàng Việt luật lệ.


Hoàng Việt luật lệ ban hành năm Gia Long thứ 12 (1813) Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV/Mộc bản triều Nguyễn
- Quân đội:

Sau khi đánh bại Tây Sơn giành được chính quyền, vua Gia Long đã ban thưởng cho các tướng sĩ, cho hưởng chế độ tập ấm đối với con cháu người có công, lập đền thờ những người tử trận, lính già nua được cho giải ngũ về quê quán… Lại đặt ra phép giản binh để đỡ khó nhọc cho dân, các trấn từ Quảng Bình đến Bình Thuận, cứ 3 tráng đinh lấy 1 lính; từ Biên Hòa trở vào, cứ 5 tráng đinh lấy 1 lính; từ Hà Tĩnh trở ra đến Bắc thành, cứ 7 tráng đinh lấy 1 lính. Sáu ngoại trấn gồm Hưng Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên, cứ 10 tráng đinh lấy 1 lính.

Theo nhận định của một số người phương Tây thì vua Gia Long là một nhà quân sự có tài. Ông rất quan tâm đến kỹ thuật vũ khí và đóng tàu của phương Tây, thường nghiên cứu và tìm cách học hỏi để chế tác. Vua cũng chủ động nhờ các kỹ sư nước ngoài giúp cho việc xây dựng thành trì kiểu châu Âu để kiên cố và dễ phòng thủ hơn. Dưới thời ông Kinh thành Huế, thành Gia Định, thành Thăng Long hay một số thành lũy tại các tỉnh chủ yếu được thiết kế xây dựng theo phong cách mới, kiểu Vauban. Ông cũng cho tìm hiểu đúc thử các loại súng thần công, thuyền đi biển bọc đồng, vì vậy quân đội nói chung và thủy quân nói riêng thời vua Gia Long là một trong những giai đoạn hùng mạnh dưới triều Nguyễn.

- Kiến thiết xây dựng:

Năm 1804 bắt đầu kiến thiết xây dựng Cung thành (Tử Cấm thành) và Hoàng thành. Cung thành bốn mặt dài suốt 307 trượng 3 thước 4 tấc, xây bằng gạch, cao 9 thước 2 tấc, dày 1 thước 8 tấc. Phía trước có cửa Tả túc, cửa Hữu túc, bên tả là cửa Hưng Khánh, bên hữu là cửa Gia Tường, phía sau là cửa Tường Lân và cửa Nghi Phượng. Hoàng thành bốn mặt dài suốt 614 trượng, xây gạch, cao 1 trượng 5 thước, dày 2 thước 6 tấc. Hồ bọc ba phía, tả, hữu, hậu, dài suốt 464 trượng 1 thước. Phía trước có cửa Tả Đoan và cửa Hữu Đoan, bên tả là cửa Hiển Nhân, bên hữu cửa Chương Đức, phía sau có cửa Cung Thần. Cửa Tường Lân sau đổi làm cửa Tường Loan, cửa Cung Thần sau đổi làm cửa Địa Bình.

Lại cho xây đắp Kinh thành, bốn mặt dài 2.487 trượng 4 thước 7 tấc, suốt bốn mặt có hào nước dài 2.503 trượng, 4 thước 7 tấc; có 10 cửa, mặt trước là cửa Thể Nguyên, cửa Quảng Đức, cửa Chính Nam, cửa Đông Nam, bên tả là cửa Chính Đông, cửa Đông Bắc, bên hữu là cửa Chính Tây, cửa Tây Nam, phía sau là cửa Chính Bắc, cửa Tây Bắc. Góc đông bắc đắp đài Thái Bình, trên đài mở một cửa gọi là cửa Thái Bình, cửa đài gọi là cửa Trường Định; thân thành đài dài suốt 246 trượng 7 thước 4 tấc. Kỳ đài cao 4 trượng, 4 thước. Cửa Thể Nguyên sau đổi làm cửa Thể Nhân, cửa Thái Bình sau đổi làm cửa Trấn Bình.

Việc xây dựng lấy biền binh ở Kinh và các tỉnh từ Thanh - Nghệ ra đến Bắc Thành, cùng quân dân các doanh Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định sung vào làm việc, cấp tiền gạo mỗi người mỗi tháng tiền 1 quan 5, gạo 1 phương 15 bát.

- Khoa cử:

Mặc dù vua Gia Long xuất thân võ tướng, các quan theo phò vua dựng nên cơ nghiệp hầu hết nhờ võ công, nhưng nhà vua cũng nhận thức được việc trị quốc cần phải cân bằng cả văn và võ. Vì vậy nhà vua khá chú trọng việc học hành khoa cử để chọn hiền tài ra giúp nước. Ngay khi mới lên ngôi, vua ban Chiếu cho các cựu thần nhà Lê và những hương cống học trò rằng: “Nay việc trong nước đã yên, võ công đã định, chính là buổi chấn hưng văn hóa, xây dựng trị bình”. Vua đề nghị nhân sĩ các nơi lần lượt vào yết kiến. “Ta sẽ nghe lời nói, thử việc làm, tùy tài mà bổ dụng, cho người hiền được có vị, người tài được có chức, hợp lòng nghĩ, chia mưu làm, để cùng nên đạo trị nước”[5]. Do đó những người ẩn dật ở Bắc Hà đều lũ lượt ra giúp việc.

Khi cùng bầy tôi bàn phép khoa cử, vua Dụ rằng: “Khoa mục là con đường bằng phẳng của học trò, thực không thiếu được. Phải nên giáo dục thành tài, rồi sau thi Hương thi Hội lần lượt cử hành, thì người hiền tài sẽ nối nhau lên giúp việc”.

Vua cho lập Văn miếu tại các doanh trấn thờ đức Khổng Tử để coi trọng việc học hành. Đặt Quốc tử giám ở Kinh đô để dạy học, giáo dưỡng các hoàng tử, con cháu trong hoàng tộc và quan lại trong triều đình. Ngoài ra cho đặt chức Đốc học ở các trấn và dùng những người có khoa mục để trông coi việc dạy dỗ.

Gia Long năm thứ 6 (1807) định phép thi Hương và thi Hội. Tháng 10 năm đó mở khoa thi Hương đầu tiên từ Nghệ An trở ra Bắc. Khoa thi năm Đinh Mão (1807) có 6 trường là Nghệ An, Thanh Hoa, Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam và Hải Dương; lấy đỗ 61 người. Theo lệ định dự kiến năm trước thì Hương thì năm sau thi Hội nhưng sau Đình thần bàn thấy mới buổi đầu bình định, văn học còn ít, nên đình việc thi Hội. Năm Gia Long thứ 12 (1813) bắt đầu mở khoa thi Hương từ Quảng Bình trở vào Nam. Tuy nhiên khoa thi năm đó có 6 trường thì chỉ có Quảng Đức là Kinh đô và Gia Định ở phía Nam; còn lại 4 trường phía Bắc là Nghệ An, Thanh Hoa, Thăng Long, Sơn Nam; lấy đỗ 82 người. Ngoài ra còn có khoa thi năm Kỷ Mão (1819) tức Gia Long năm thứ 18 gồm 6 trường Trực lệ, Nghệ An, Thanh Hoa, Thăng Long, Sơn Nam và Gia Định; lấy đỗ 112 người.

- Ngoại giao:

Có thể nói thời vua Gia Long việc ngoại giao với lân bang khá yên ổn. Với nhà Thanh là nước lớn ông chủ trương thần phục, vì vậy sau khi lên ngôi ông cử ngay Thượng thư Bộ Binh Trương Quang Định làm Chánh sứ sang Trung Hoa cầu phong và đề nghị công nhận quốc hiệu mới. Đối với các nước như Ai Lao, Cao Miên, Chân Lạp ông chủ trương tiếp tục giữ quyền bảo hộ.

Riêng với Xiêm La từ khi còn gian truân chống Tây Sơn ông đã một số lần phải cầu viện sự giúp đỡ, vì vậy sau khi phục quốc vua Gia Long luôn giữ mối quan hệ khá hữu hảo. Đồng thời quốc vương Xiêm La cũng duy trì mối quan hệ tốt với Việt Nam. Châu bản triều Nguyễn ghi chép sự kiện tháng 2 năm Gia Long 15 (1816) Nam Vang và Xiêm La xung đột rất căng thẳng tại vùng biên giới, Quốc vương Xiêm La gửi thư thông báo đến vua Gia Long về tình hình bất ổn tại Bát Tầm Bôn[6]. Sau đó vua Gia Long đã gửi thư vấn an. Ngày 21 tháng 6 năm Gia Long 15 (1816) Quốc vương Xiêm La lại gửi thư cho vua Gia Long nói rằng: “Cảm tạ quý quốc đã có thư vấn an, nay tôi sai sứ thần đem chút lễ mọn đến cung tiến Quốc vương cùng Hoàng hậu, mong tình hữu nghị giữa hai nước chúng ta ngày càng bền chặt”. Sau đó ngày 23 tháng 8 năm Gia Long 15 (1816), vua Gia Long đã gửi thư phúc đáp rằng: “Cảm tạ việc quý quốc sai sứ thần đệ thư và tặng phẩm vật. Duy việc quân Nam Vang và Bát Tầm Bôn gây nhiễu ở biên giới quý quốc, Bộ Hình nước tôi sẽ phối hợp với quân đội quý quốc giải quyết và Bộ Lễ sẽ gửi thư trả lời sau. Tiện đây nhờ sứ thần của quý quốc chuyển tặng đến Quốc vương 4 thoi vàng ròng, 50 thoi bạc; tặng Hoàng hậu 2 thoi vàng ròng, 30 thoi bạc”[7].

20-02-001-203255-190220-74.jpg

Thư của Hoàng đế Gia Long gửi quốc vương Xiêm La cảm tạ việc tặng lễ vật đồng thời nhờ sứ thần chuyển tặng phẩm đến quốc vương Xiêm La năm Gia Long 15 (1816). Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I/Châu bản triều Nguyễn
Đối với phương Tây nói chung, vua Gia Long khá e dè, không muốn cởi mở giao thiệp, nhưng cũng không quá khắt khe. Riêng với nước Pháp, vua Gia Long có phần thân mật và trọng thị, bởi lẽ trước khi phục quốc ông đã phải dựa vào sự giúp đỡ của người Pháp. Vì vậy sau khi lên ngôi ông đã dành một số vị trí trong triều để ban thưởng cho những sĩ quan Pháp từng theo giúp mình. Tuy nhiên giai đoạn này nước Pháp dưới thời Napoléon I[8] đang khá bận rộn với các cuộc chiến chinh phạt Châu Âu nên cũng chưa có nhiều quan hệ với Việt Nam. Phải tới năm 1817 sau khi vua Louis XVIII lật đổ được Napoléon Bonaparte thì ngoại giao và thương mại giữa Việt Nam và Pháp mới khôi phục trở lại. Ngày 10 tháng Giêng năm Gia Long 16 (1817) nước Pháp thông qua viên Giám mục Nhược Hàn[9] đã gửi thư thông báo đến vua Gia Long về tình hình thay đổi chính phủ tại Pháp và bày tỏ sự mong muốn nối lại tình hữu nghị giữa hai nước[10]. Từ đó, tàu thuyền và những người Pháp bắt đầu đến Việt Nam ngày càng nhiều.

Mặc dù thân mật với người Pháp nhưng vua Gia Long cũng khá thận trọng, việc “trả ơn” cho những người từng theo giúp ông phục quốc chỉ dừng ở bổng lộc chứ không phải quyền lực chính thức trong triều đình. Có lẽ ông đã sớm nhận ra tham vọng của Pháp và Tây Âu cũng như mối quan hệ giữa truyền giáo và sự bành trướng của thực dân đối với mảnh đất Á Đông xa xôi này nên đã bắt đầu cảnh giác. Việc ông lựa chọn người kế vị là Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm (tức vua Minh Mệnh), một người khá cứng rắn và không thiện cảm với phương Tây là một minh chứng. Những chính sách khắt khe của Minh Mệnh đối với Tây Âu và Công giáo đã phần nào cho thấy rõ mong muốn ly khai dần phương Tây của Gia Long và các vua nhà Nguyễn sau này. Và đó cũng là câu chuyện gây nhiều tranh cãi của người đời sau khi cho rằng chính việc tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của phương Tây một cách cực đoan đã khiến nhà Nguyễn bị cô lập dẫn đến việc không những không phát triển được kinh tế mà còn dễ dàng bị thực dân thôn tính cho tới kỳ vua Tự Đức thì mới bị xâm lược


[1] Đời vua Minh Mệnh, năm 1820 đổi thành Văn thư phòng, năm 1829 lại đổi thành Nội các.
[2] Thời Lê là chức Tham tụng, Bồi tụng.
[3] Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, bản dịch, NXB Thuận Hoá, Huế, 1993, trang 126-135 (mục Sổ Đinh, quyển 39: Bộ Hộ).
[4] Đại Nam thực lục, Đệ nhất kỷ, quyển XLV.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, trang 507.
[6] Battambang (Campuchia)
[7] Châu bản triều Nguyễn, Gia Long tập 4, tờ 1-12.
[8] Napoléon I tên đầy đủ là Napoléon Bonaparte, phiên âm Hán Việt là Nã Phá Luân (拿破侖) (1769-1821) là một nhà chính trị, quân sự tiêu biểu của nước Pháp trong và sau cuộc Cách mạng Pháp, ông là Hoàng đế của nước Pháp từ năm 1804 đến năm 1815.
[9] Chưa rõ tên tiếng Pháp.
[10] Châu bản triều Nguyễn, Gia Long tập 4, tờ 13.
 

Nem2501

Yếu sinh lý
trước cũng đọc 1 lần rồi phải nói rất nghị lực và quyết tâm. Đúng khí vận chi tử trong truyền thuyết {big_smile}
 

daodiemq

Tiến sĩ
Gia Long tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh), còn có húy là Chủng (種) hay Noãn (暖), là con trai thứ ba của hoàng tử Nguyễn Phúc Luân với bà Nguyễn Thị Hoàn, và là cháu nội của Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ông sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (ngày 8 tháng 2 năm 1762), mất ngày 19 tháng 12 năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), truyền ngôi cho Hoàng Thái tử Nguyễn Phúc Đảm tức vua Minh Mệnh (Minh Mạng).

Có thể nói cuộc đời Ánh (Gia Long) là sự nghiệp của một võ tướng trên lưng ngựa từ đứa con nít 12 tuổi mồ côi cha mẹ bị giặc Huệ đem ngàn binh mã đi lùng giết mà số trời bắt Ánh phải sống trưởng thành tới võ tướng cầm quân đánh bại Huệ trận Thị Nại.

Năm 1777 khi mới 15 tuổi ông Ánh đã phải bôn tẩu gian nan, cùng với gia tộc chúa Nguyễn bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục ngôi vị. Cho đến nay có khá nhiều quan điểm trái ngược về Nguyễn Ánh, nhiều người cho rằng ông bắt tay với Xiêm La, Pháp và nhà Thanh để chống lại Tây Sơn. Việc cầu viện ngoại bang nhằm khôi phục vương quyền đã khiến Nguyễn Ánh bị chỉ trích rất nhiều. Tuy nhiên khách quan mà nói, ông là người có đóng góp không nhỏ trong việc thống nhất giang sơn, kết thúc cuộc nội chiến liên miên nhiều thế kỷ ở Việt Nam.

Năm 1792, vua Quang Trung (Huệ) mất, nội bộ nhà Tây Sơn đánh nhau kinh hoàng, suy yếu, lợi dụng cơ hội đó Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn. Năm 1802 ông chính thức lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại quân chủ mới - Triều Nguyễn[1].


Chân dung vua Gia Long. Nguồn: Sưu tầm
Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) ông cho lập đàn ở đồng An Ninh, hiệp tế trời đất, kính cáo việc đặt niên hiệu. Hôm sau kính cáo vong linh liệt thánh, lễ xong vua ngự ở điện, nhận lễ chầu mừng. Đặt niên hiệu là Gia Long, đại xá cho cả nước, ban chiếu cùng 6 điều thi ân.

Năm 1804, sau khi lên ngôi sắp đặt chính trị ổn định, vua Gia Long sai Lê Quang Định cùng các sứ thần sang nước Thanh cầu phong và đề nghị công nhận quốc hiệu Nam Việt với ý nghĩa “Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng lớn, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã vỗ yên được toàn cõi Việt, nên cho khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt”. Nhưng vua nước Thanh cho rằng chữ Nam Việt dễ bị nhầm lẫn bao gồm cả Đông Tây Việt[2] nên không muốn cho. Vua Gia Long hai ba lần phục thư biện giải, lại nói nếu không cho thì không thụ phong. Vua nhà Thanh ngại mất lòng, mới cho dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước[3].

Ngay sau khi được nhà Thanh công nhận quốc hiệu, ngày Đinh Sửu, tháng 2 năm Giáp Tý (1804) vua Gia Long cho làm lễ kính cáo Thái miếu. Xuống chiếu bố cáo khắp trong ngoài rằng “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta đem tấm thân nhỏ bé lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ tướng, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”. Sau đó hạ chiếu thông cáo đến các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng đều biết[4].

10-02-002-075821-100220-32.jpg

Đặt quốc hiệu Việt Nam năm Gia Long thứ 3 (1804). Nguồn: Đại Nam thực lục, Đệ nhất kỷ, quyển XXIII
Mặc dù đã chính thức xưng vương, đặt niên hiệu vào năm 1802, nhưng với tư tưởng của người có chí lớn, muốn thể hiện quyền uy thiên tử, theo đề nghị của quần thần, năm 1806 vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hòa. Trong bản Chiếu ban bố việc lên ngôi Hoàng đế có lời rằng: Trẫm nghĩ: Đức của người làm vua giống như mặt trời, vương giả lấy đó mà soi sáng; đạo thống như trời, thánh nhân nhờ đấy mà noi theo phép tắc. Lớn lao thay nhà nước ta, bao trùm cả cõi Nam! Các thánh đời trước, dựng nghiệp dốc lòng, gắng sức xây nền, hai trăm năm lẻ, thánh hiền tiếp nối, công đức rạng danh… Trẫm nhờ uy linh tông miếu xã tắc và sức mạnh của quần thần, phá được quân thù, khôi phục nghiệp cũ, mở mang bờ cõi, lập nên công lớn, thực là chức phận của Trẫm, đâu dám ở ngôi cao. Nhưng các thân công đại thần nhiều lần tâu rằng trách nhiệm yên dân trời đã giao cho Trẫm mà lịch số vô cùng cũng duy có Trẫm nối dõi, cố xin Trẫm lên ngôi Hoàng đế để tỏ rõ đại thống. Vì vậy, Trẫm định ngày mồng 7 tháng này kính cáo Trời Đất, ngày 9 kính cáo Tôn Miếu, ngày 12 tiếp nhận sách văn, tôn xưng Hoàng đế[5].

Sau khi lập quốc, Gia Long cho lập danh sách truy tôn, tặng thưởng các công thần theo phò vua khai quốc. Vua ban Dụ rằng: Đấng vương giả dựng nghiệp truyền mối, trước phải tôn thờ người có đức, báo đáp người có công. Nhà nước ta trăm trận vất vả mới khôi phục được non sông, đành là mệnh trời yêu mến, nhưng cũng thực là nhờ sức của các tướng sĩ cùng ta chống kẻ thù chung. Phàm người có chiến công, còn sống thì đã được vinh gia tước trật, duy những người vì nước bỏ mình, trong lúc can qua bận rộn, chưa kịp truy phong, mà sổ ghi công trạng vẫn còn, thì đều cho các quan chưởng lãnh và chánh phó trưởng chi [của các viên đã mất] tới trước điện hầu nghe bàn công truy tặng, để cho yên ủi hồn thơm đã khuất[6]. Lại ra lệnh thu dùng con cái, không có con thì dùng cháu, không có cháu thì dùng em, tùy theo công lao nặng nhẹ, hoặc trao cho quan chức, hoặc cho miễn binh dao trọn đời. Sau đó sai trấn Phiên An chọn đất xây đền, đặt tên là đền Hiển Trung, thờ những công thần, lại sắc cho Bộ Lễ bàn định điển lễ thờ tự, hằng năm xuân thu làm lễ tế. Đặt phu coi đền 25 người.

Ngoài ra ông còn cho sửa sang phả điệp tông thất, kê khai con cháu trong phả hệ. Bản Chiếu ngày 15 tháng 12 năm Gia Long thứ nhất (1802) chiếu cho những người thuộc dòng Nguyễn Phước tộc biết: Từ khi Đức Tiên Thái Vương[7] dựng nước, Nam giao thánh thần truyền nối trải được tám, chín đời, các chi phái sinh sôi phồn thịnh. Khi nước nhà mới khởi nghiệp mở mang, tông tính nhiều phen bôn ba. Nay nhờ liệt thánh rủ lòng che chở, bình kẻ tiếm loạn, duy việc các thế hệ thân thích trong dòng họ đến nay vẫn chưa được rõ ràng. Vì vậy nay ban đặc chiếu căn cứ từ Đức Tiên Thái Vương cùng Liệt Tiên Thánh Vương cho đến nay chiếu theo phả điệp của hoàng tộc phụng truyền cho công tính các chi phái đều kê khai rõ ràng các đời, phả hệ phỏng từ Đức Tiên Thái Vương sinh hạ được công tử là hiền ngôi, ai là dòng đích, ai là dòng thứ, nối sinh con cháu các thế hệ được bao nhiêu, nhận ân điển của liệt triều cũng vậy. Hễ công tính các chi phái hiện còn bao nhiêu, ai đã được dự vào hàng quan chức, ai chưa được đều phải kê khai đầy đủ theo các thế hệ trước, nghiên cứu rõ ràng đích thực, sửa sang phả điệp trình lên để xem xét[8].



Sắp xếp ổn định xong việc định đô, đặt niên hiệu, quốc hiệu, tôn xưng đế hiệu, báo đáp công thần, sửa sang tông phả; Hoàng đế Gia Long bắt tay vào công cuộc xây dựng thiết chế bộ máy chính quyền, chế định triều nghi, luật pháp, binh ngạch, khoa cử… Công cuộc khai quốc của ngài còn rất nhiều việc phải làm.
Đón xem Kỳ II: Công cuộc kiến thiết triều Nguyễn


[1] Trên thực tế mùa xuân tháng Giêng năm Canh Tý (1780) Nguyễn Ánh đã xưng vương tại Gia Định để chính danh khi tiễu phạt Tây Sơn. Tuy nhiên vẫn dùng niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê và ấn Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh trấn chi bảo từ thời Hiển tông Hiếu minh hoàng đế làm bảo tỷ truyền quốc. Vì vậy năm 1802 mới là năm chính thức bắt đầu triều đại Gia Long và cũng là năm bắt đầu của triều Nguyễn.
[2] Tức vùng Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Hoa.
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, trang 580.
[4] Đại Nam thực lục, đã dẫn, trang 588.
[5] Đại Nam thực lục, đã dẫn, trang 665.
[6] Đại Nam thực lục (Tiền biên), đã dẫn, trang 277.
[7] Tức Chúa Tiên Nguyễn Hoàng.
[8] Châu bản triều Nguyễn, Gia Long tập 1, tờ 2-3.
 

bababababa

Tao là gay
Tao chỉ thắc mắc thời Tây Sơn quân đã dùng pháo, dùng súng ầm ầm, thế đéo nào về tay nhà Nguyễn súng với pháo đi đâu hết cả, để mấy trăm thằng Pháp nó bắn như con ?
 

chubeloatchoat

Yếu sinh lý
Quang Trung làm chính trị như con cặc vậy, ông này mà ko chết sớm có thống nhất được giang sơn thì cũng thi nhau cắm đầu xuống đất thôi. Chẳng qua truyền thống VN trọng người cầm quân giỏi nên ông này được nhắc nhiều
 

atlas01

Tiến sĩ
Tao chỉ thắc mắc thời Tây Sơn quân đã dùng pháo, dùng súng ầm ầm, thế đéo nào về tay nhà Nguyễn súng với pháo đi đâu hết cả, để mấy trăm thằng Pháp nó bắn như con ?
Súng thời pháp đánh an nam là súng xịn nạp đạn hậu và cải tiến liên tục
Tất cả do pháp phát minh.
Chỉ trong 30 năm nó phát minh ra 3 thế hệ súng trường cải tiến
 
Bên trên