• Nhóm kín víp prồ, đỉnh của chóp 👉 xamvn

Kiến thức Phương Tây: Phân biệt Kitô giáo, Cơ Đốc giáo, Công giáo, Thiên Chúa giáo và Tin Lành !

monika

Tao là gay
Hoãn tour quảy byzantine chant. Thanks chủ thớt bên đông năm á bị dính charismatic pentecostal rồi xui quá cái charismatic pentecostal khoái hill song với ba cái secular contemporary rồi
 

Tòa án Tối Cao

Tao là gay
Chủ thớt
Vô bình loạn thôi A/E
 

Tòa án Tối Cao

Tao là gay
Chủ thớt
Một câu nổi tiếng cố hồng y nói với những quản giáo được kể lại là: “Cho dù các anh giết tôi, tôi vẫn yêu thương các anh. Tại vì Chúa Kitô đã dạy tôi phải yêu thương tất cả mọi người, cả những kẻ thù. Nếu tôi không làm như vậy, tôi không đáng được gọi là Kitô hữu.”

1690695405294.png

Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận là cháu ruột gọi hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là cậu và từng đi tù CS 13 năm.

Tòa Thánh Vatican vừa thành lập quỹ “The Văn Thuận Foundation,” theo tên cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, một giáo sĩ Việt Nam nổi tiếngvới những suy niệm tâm linh về hy vọng, được viết trong và sau 13 năm bị giam cầm trong nhà tù chế độ cơm sườn Việt Nam, theo bản tin Catholic News Agency hôm 25 Tháng Bảy.

Theo bản tin, qua việc thành lập này, tòa thánh hợp nhất hai quỹ “Good Samaritan” và “Justice and Peace Foundation” thành một quỹ có tên “The Văn Thuận Foundation.”

Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận sinh ngày 17 Tháng Tư, 1928, tại tại Phủ Cam, Huế, là anh cả trong một gia đình có tám anh chị em. Thân phụ là ông Nguyễn Văn Ấm, mẹ là bà Ngô Ðình Thị Hiệp, em ruột cố Giám Mục Ngô Ðình Thục và cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.

Ông theo học tại Tiểu Chủng Viện An Ninh, Quảng Trị, và Ðại Chủng Viện Kim Long, Huế, và thụ phong linh mục ngày 11 Tháng Sáu, 1953.

Năm 1967, Linh Mục Nguyễn Văn Thuận được tòa thánh bổ nhiệm làm giám mục Giáo Phận Nha Trang.

Sau đó, ông được bổ nhiệm làm phó tổng giám mục Tổng Giáo Phận Sài Gòn vào ngày 24 Tháng Tư, 1975, chỉ sáu ngày trước khi miền Nam rơi vào tay cơm sườn Bắc Việt.

Sau đó, ông bị bắt và bị giam giữ 13 năm trong trại tù cải tạo của CSVN. Trong thời gian bị giam cầm, bao gồm chín năm biệt giam, ông lén đưa ra ngoài các thông điệp viết tay để được lưu hành trong cộng đồng Công Giáo.

Những lời nhắn nhủ của cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận từ trong tù được in thành sách có nhan đề “Đường Hy vọng: Tin Mừng Từ Nhà Tù” vào năm 2013. Những lời cầu nguyện mà cố hồng y viết trong thời gian đó sau đó cũng được xuất bản với tựa đề “Những Lời Cầu Nguyện Hy Vọng.”

Dù không được phép mang bất kỳ vật phẩm tôn giáo nào vào trong tù, vị hồng y tương lại đã làm một cây Thánh Giá nhỏ sau khi quản giáo đưa cho một khúc gỗ và một ít dây điện.

Sau khi được trả tự do vào năm 1988, ông bị quản thúc tại gia ba năm trước khi được phép đến thăm Rome, Ý, vào năm 1991. Tuy nhiên, ông không được phép trở lại Việt Nam và phải sống lưu vong cho đến cuối đời.

Hồng Y Thuận từ chức phó tổng giám mục Sài Gòn năm 1994 khi được bổ nhiệm làm phó chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Về Công Lý và Hòa Bình. Sau đó, ông trở thành chủ tịch của hội đồng này vào năm 1998.

Năm 2000, Hồng Y Thuận được mời giảng tĩnh tâm cho Đức Giáo Hoàng John Paul II và Giáo Triều Rome.

Hồng Y Thuận qua đời vì bệnh ung thư ở Rome vào ngày 16 Tháng Chín, 2002, hưởng thọ 74 tuổi.

Ngày 17 Tháng Chín, 2007, Tòa Thánh Vatican bắt đầu những thủ tục đầu tiên cho việc tuyên phong chân phước và phong thánh cho cố hồng y. Ðây cũng là lần đầu tiên có một người Việt Nam được khởi sự án phong chân phước mà không phải là Thánh Tử Đạo.

Lúc sinh thời, cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận tới nhiều quốc gia, giảng tín lý Công Giáo qua các trải nghiệm của chính mình, đặc biệt sự lạc quan, yêu thương đồng loại ngay cả trong những ngày tù tội.
 

Thanava

Yếu sinh lý
Đối với người Việt bình thường mà nói, các danh xưng Cơ Đốc giáo, Kitô giáo, Công giáo, Thiên Chúa giáo và Tin Lành luôn khiến chúng ta bối rối và nhầm lẫn, bởi vì các tôn giáo phương Tây truyền vào Việt Nam ở các thời kỳ khác nhau, qua các con đường khác nhau, và được phiên dịch khác nhau. Thế nên, muốn hiểu rõ những danh xưng các tôn giáo có nguồn gốc phương Tây này thì trước tiên cần tìm hiểu về nguồn gốc của các tôn giáo đó.

Các tôn giáo chính ở phương Tây chủ yếu là các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham (Áp-ra-ham), cũng gọi là các tôn giáo độc Thần hay đơn Thần – tin vào sự tồn tại của một Đấng Tối cao duy nhất, chủ yếu bao gồm Do Thái giáo, Kitô giáo, và Hồi giáo…

Do Thái giáo

Ở một mức độ nào đó, các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham đều có nguồn gốc từ Do Thái giáo – đã có chiều dài lịch sử hơn 3.000 năm, xuất hiện vào thời đồ đồng trước Công nguyên ở vùng Trung Đông và được xem là tôn giáo đơn Thần đầu tiên.

Theo người Do Thái, Do Thái giáo là mối giao ước giữa Đức Chúa Trời Giê-hô-va và ông Abraham – người được chọn làm tổ phụ của người Israel cổ đại, mà sau này là người Do Thái.

Lịch sử Do Thái giáo không thể tách rời lịch sử của chính người Do Thái. Sự ra đời của người Do Thái và sự khởi đầu của Do Thái giáo được kể trong 5 cuốn sách đầu tiên của Hebrew Bible (Kinh Thánh tiếng Do Thái), hay còn được gọi là Kinh Cựu Ước.

Kitô giáo

Đến thời Chúa Giêsu, sau khi Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá, Kitô giáo mới ra đời vào thế kỷ thứ nhất và được tính là khởi đầu của Công nguyên.

Các tín đồ của Kitô giáo được gọi là Kitô hữu. Họ tin rằng Chúa Giêsu là con của Thiên Chúa Giê-hô-va; và những Kitô hữu đầu tiên, như được kể lại trong sách “Công vụ Tông Đồ” (hay "Công vụ Các Sứ Đồ"), đều là người Do Thái đã chuyển đổi đức tin, cho nên Do Thái giáo cũng được coi như tôn giáo mẹ đẻ của Kitô giáo.

Vào thế kỷ I, cùng với việc Jerusalem bị chiếm đóng, trung tâm của giáo hội dần dần chuyển sang Roma (hay Rome), thủ đô của Đế chế La Mã. Từ thế kỷ I đến đầu thế kỷ IV sau Công nguyên, các hoàng đế của Đế chế La Mã đã nhiều lần đàn áp các Kitô hữu. Cho đến khi Constantine Đại Đế cải đạo sang Kitô giáo vào năm 313, sau nhiều tranh chấp tôn giáo, Hoàng đế La Mã Theodosius I đã ban hành sắc lệnh vào năm 380, tuyên bố Kitô giáo là quốc giáo. Đến thế kỷ V, sau khi Đế quốc La Mã bị chia cắt làm đôi, Kitô giáo cũng dần bị phân làm hai nhánh (nội dung này sẽ được nói rõ hơn ở phần dưới).

Kinh Cựu Ước và Tân Ước

Kinh Thánh của Kitô giáo bao gồm phần đầu – Cựu Ước (giao ước cũ) – được tuyển chọn phần lớn từ cuốn Hebrew Bible của Do Thái giáo, và phần cuối – Tân Ước (giao ước mới).

Các Kitô hữu khi đó tin rằng Tân Ước là giao ước mới giữa Đức Chúa Trời Giê-hô-va và người Israel cổ sau khi Chúa Giêsu đến thế gian, là sự thay thế cho giao ước cũ. Tuy nhiên, Do Thái giáo không có cùng quan điểm này nên cộng đồng Do Thái nói chung không dùng cụm Kinh Cựu Ước, mà họ gọi Hebrew Bible là Kinh Tanakh – là từ viết tắt của các chữ cái đầu trong 3 phần của Kinh Thánh Hebrew gồm Torah, Nevi'im và Ketuvim.

Cựu Ước được viết bằng tiếng Do Thái hoặc đôi khi bằng tiếng Aram vào trước thời điểm Chúa Giêsu ra đời; còn Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp bởi nhiều tác giả trong khoảng từ sau năm 45 Công nguyên tới trước năm 140 Công nguyên.

Kitô giáo – Cơ Đốc giáo

Kitô giáo và Cơ Đốc giáo là một. Nó bắt nguồn từ tên gọi và danh hiệu của Chúa Giêsu Kitô trong các ngôn ngữ khác nhau.

Tên gọi Giêsu trong tiếng Do Thái nguyên là Yehoshua, sau này rút gọn là Yeshua, nghĩa là “Yahweh is lordly” ("Đức Giê-hô-va là Đấng cao quý" hoặc "Đức Giê-hô-va là Đấng cứu rỗi").

Kitô không phải là họ của Chúa Giêsu, đó là danh hiệu mà các tín đồ thường gọi Ngài. Chữ Kitô này bắt nguồn từ chữ Χριστός (Khristós) trong tiếng Hy Lạp, được dịch từ chữ Mashiakh (משיח) trong tiếng Do Thái, nó có nghĩa là “Đấng được xức dầu”, và thường được chuyển ngữ sang tiếng Anh là Messiah (Đấng Cứu thế). Bởi họ tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Messiah được tiên tri trong Kinh Cựu Ước. Dần dần, danh xưng Kitô cũng được coi như một cái tên và trở thành một phần trong tên của Chúa – “Giêsu Kitô”.

Trong tiếng Anh, tên của Ngài là Jesus Christ. Các môn đồ của Ngài được gọi là Christian, tức người đi theo Christ, từ này đã được sử dụng từ thế kỷ thứ nhất.

Hai chữ “Giêsu” và “Kitô” được phiên âm từ các chữ “Yeshua” và “Khristós”, còn theo âm Hán Việt thì là Gia-tô Cơ-đốc. Vậy nên hai cách gọi Cơ Đốc giáo và Kitô giáo được dùng song song (bài viết này thống nhất dùng cụm ‘Kitô giáo’). Theo đó, ngoài Kitô hữu, các tín đồ của Kitô giáo còn được gọi là Cơ Đốc nhân.

Trải qua nhiều thế kỷ, Kitô giáo đã tự chia cắt thành nhiều giáo hội và giáo phái khác nhau do bất đồng về Thần học và giáo hội học. Quá trình này thường được biết đến với cụm từ “ly giáo” (ly khai, tách rời giáo hội).

Hiện nay, về cơ bản Kitô giáo có 3 nhánh chính là Công giáo Roma, Chính thống giáo Đông phương và Tin Lành.

Các cuộc Ly giáo

Cuộc ly giáo đầu tiên vào thế kỷ V

Sau khi Đế quốc La Mã (Roma) bị chia cắt thành hai phần là Đế quốc Đông La Mã và Đế quốc Tây La Mã, địa vị của Giám mục thành Rome tiếp tục được củng cố ở Đế quốc Tây La Mã; còn ở Đế quốc Đông La Mã, địa vị của Giám mục thành Constantinople cũng dần tăng lên.

Khi này, cả hai giám mục có địa vị ngang nhau. Cả hai bên vẫn được tính là cùng một giáo hội, những đã tồn tại một số khác biệt về giáo lý và truyền giáo giữa Đông phương Constantinople và Tây phương Roma. Đặc biệt là khi Giáo hoàng Roma thay đổi một điểm trong giáo lý, sửa “Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha” thành “Chúa Thánh Thần cùng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”.

Từ thế kỷ IX trở đi, tranh chấp giữa hai bên ngày càng gay gắt, dẫn đến cuộc Đại ly giáo vào thế kỷ XI.

Cuộc Đại ly giáo vào thế kỷ XI (năm 1054)


Chính thống giáo Đông phương và Công giáo Roma

Đại Ly giáo hay Ly giáo Đông – Tây là sự kiện chia rẽ Kitô giáo xảy ra vào thời Trung Cổ. Kết quả là hình thành nên hai hệ phái Kitô giáo gồm: Đông phương (theo văn hóa Hy Lạp với trung tâm là thành Constantinopolis – nay là Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ) và Tây phương (theo văn hóa Latinh với trung tâm là thành Roma).

Thuật ngữ "Đông phương" và "Tây phương" này không hàm ý chỉ châu Á hay châu Âu mà là chỉ khu vực lãnh thổ của các giáo hội trong lịch sử và văn hóa, sau này tương ứng là Chính thống giáo Đông phương Công giáo Roma.

Thượng phụ và Giáo hoàng

Người đứng đầu giáo hội ở Đông phương, với trung tâm đặt tại Constantinopolis, được gọi là Thượng phụ Constantinopolis; tương ứng ở Tây phương – Roma, người đứng đầu được gọi là Giáo hoàng Roma.

Quan hệ Đông – Tây bị chia rẽ bởi các yếu tố Thần học, cách tổ chức, nghi thức và những học thuyết; nổi bật nhất là sự phản đối của Chính thống giáo Đông phương đối với uy quyền tối cao của Giáo hoàng, họ coi giáo hội của mình mới là giáo hội “chính thống” được kế thừa nguyên thủy từ Chúa Giêsu, vậy nên mới xuất hiện danh xưng “Chính thống giáo Đông phương”.

Còn các tín hữu của Công giáo Roma tự nhận rằng, Giáo hội Công giáo Roma mới là giáo hội duy nhất do chính Chúa Giêsu Kitô thiết lập dựa trên các tông đồ của Ngài. Họ tin rằng Thánh Peter (Phê-rô, tiếng Hy Lạp là Pétros) – tông đồ trưởng của Chúa Giêsu – đã nhận được sự ủy thác của Chúa để thành lập giáo hội và trở thành vị Giáo hoàng đầu tiên, và các giám mục của giáo hội là những người kế vị các tông đồ khác.

undefined
Thánh Phê-rô đươc vẽ như Giáo hoàng, tay cầm chìa khóa lên Thiên đường. (Miền công cộng)

Đại diện khi đó của hai phái là Giáo hoàng Roma Leo IX và Thượng phụ Constantinopolis Michael Cerularius liên tục có những xung khắc. Năm 1054, Roma và Constantinopolis tuyên bố khai trừ lẫn nhau, từ đây cuộc Đại Ly giáo chính thức bắt đầu. Về cơ bản, hai giáo hội này vẫn còn ly giáo cho đến ngày nay.

Công giáo – Thiên Chúa giáo

Giáo hội Công giáo, còn được gọi là Giáo hội Công giáo Roma, là giáo hội Kitô giáo hiệp thông hoàn toàn với Giáo hoàng, tức là hoàn toàn nằm dưới sự lãnh đạo của Giáo hoàng. Giáo hoàng hiện nay là ông Francis (Phanxicô).

Giáo hoàng là Giám mục của Giáo phận Roma, là người đứng đầu Giáo hội Công giáo. Ông được các tín hữu coi là đại diện cao nhất của Thiên Chúa ở trần gian, người có quyền uy, ảnh hưởng lớn nhất trong Giáo hội Công giáo trên toàn cầu. Chỉ có duy nhất Giáo hoàng mới có quyền bổ nhiệm các giám mục ở mọi giáo phận trên thế giới.

Từ “Giáo hoàng” có nghĩa đen là “hoàng đế của giáo hội”, từ này trong tiếng Việt không được dịch sát từ chữ gốc trong tiếng Hy Lạp (páppas – vốn là từ để gọi người cha trong gia đình một cách kính mến, sau được dùng để chỉ Giám mục hoặc Thượng phụ) mà là từ chữ Hán.

Ngày nay, ngoài việc có thẩm quyền chính thức trong các vấn đề tôn giáo, Giáo hoàng còn là người lãnh đạo Thành Quốc Vatican – một quốc gia có chủ quyền với tổng diện tích lãnh thổ nhỏ nhất thế giới, nằm trọn trong thủ đô Roma của nước Ý.

Trong tiếng Anh, Giáo hội Công giáo là Catholic Church, tín đồ Công giáo được gọi là Catholic. Thuật ngữ Catholic bắt nguồn từ chữ καθολικός (katholikos) trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "phổ quát", "chung". Lần đầu tiên nó được sử dụng để mô tả về Giáo hội là vào những năm đầu Thế kỷ thứ II. Khi dịch sang tiếng Việt là "Công giáo". Như vậy tên gọi Giáo hội Công giáo có nghĩa là "Giáo hội phổ quát".


Khi các nhà truyền giáo của Giáo hội Công giáo tới Trung Quốc, họ đã phiên dịch "Giáo hội Công giáo" thành "Giáo hội Thiên Chúa", đây là danh xưng chính thức của Giáo hội Công giáo trong tiếng Trung. Từ đó xuất hiện thêm tên gọi Thiên Chúa giáo. Vậy Công giáo và Thiên Chúa giáo cũng là một, chỉ là tên gọi khác nhau trong quá trình dịch từ các ngôn ngữ khác nhau.

Chính thống giáo Đông phương

Chính thống giáo Đông phương là nhánh Kitô giáo lớn thứ nhì trên thế giới, sau Giáo hội Công giáo Roma.

Nếu người đứng đầu bên Công giáo Roma được coi là người kế thừa của Thánh Peter – Tông đồ trưởng của Chúa Giêsu, thì ở bên Chính thống giáo, Thượng phụ Constantinopolis được xem là người thừa kế của tông đồ Thánh Andrew (An-rê, tiếng Hy Lạp là Andreas).

undefined
Thánh Andrew. (Wikipedia)

Thánh Andrew cũng giống như Thánh Peter, đều là một trong Mười hai Tông đồ của Chúa Giêsu. Theo Tân Ước, Thánh Andrew là người anh ruột của Thánh Peter.

Các tín hữu của Chính thống giáo vẫn xem giáo hội của mình là trung thành nhất với các giá trị Thần học bắt nguồn từ thời Kitô giáo sơ khai. Chính thống giáo xem Chúa Giêsu là đầu của Hội thánh và Hội thánh là thân thể của Ngài. Từ "Hội thánh" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "Ekklesia" và được định nghĩa là "một hội đồng". Theo Kinh Thánh, bất cứ ai tin Chúa Giêsu cũng đều là một phần thân thể của Ngài. “Hội thánh” là từ chỉ chung cho các tín hữu Kitô.

Cấu trúc của Chính thống giáo gồm các giáo phận độc lập nhưng hiệp thông với nhau do có chung một nền Thần học. Mỗi giáo phận lại do một Giám mục cai quản, các Giám mục có thẩm quyền ngang nhau nhưng không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Thượng phụ là người đứng đầu các Giám mục, nhưng không được xem là đầu của Hội thánh hoặc giáo chủ.

Tin Lành – Tân giáo

Cuộc Cải cách Kháng nghị (còn gọi là Kháng Cách) là cuộc cải cách Giáo hội Công giáo Roma được khởi xướng bởi tu sĩ, nhà thần học người Đức Martin Luther hồi thế kỷ XVI.

undefined
Martin Luther. (Miền công cộng)

Theo ông Luther, con người chỉ có thể được cứu rỗi bởi sự ăn năn thật sự và bởi đức tin tiếp nhận Chúa Giêsu là Đấng Messiah, mà không cần vai trò trung gian của giáo hội.

Lần đầu tiên ông công khai thách thức quyền lực của Giáo hoàng là vào năm 1517, về việc bán phép xá tội (indulgence). Câu hỏi được đặt ra là liệu Giáo hoàng, hoặc bất kỳ ai khác ngoài Chúa Giêsu, có quyền lực hoặc thẩm quyền để xá tội cho những người đang ở trong Luyện ngục hay không?

Trong niềm tin của Kitô giáo, Luyện ngục (ngục luyện tội) là một cõi tạm, là nơi thanh tẩy cho những ai chết trong sự ân sủng và tình thân của Thiên Chúa nhưng vẫn chưa đủ hoàn hảo để được lên Thiên đàng.

Luther căm ghét việc bán phép xá tội, ông tin rằng phép xá tội chỉ toàn làm đầy túi cho các chức sắc giáo hội chứ chẳng có ích lợi gì cho việc cứu rỗi linh hồn. Ông cũng tin rằng việc mua bán phép xá tội sẽ khuyến khích phạm tội nhiều hơn vì khiến người ta tin rằng có thể dùng tiền để mua được sự xá tội.

Khi ấy, nhiều người ở châu Âu cũng bất bình về những giáo lý mà họ cho là giả mạo và những thứ bị lạm dụng trong giáo hội, nhất là việc mua bán phép xá tội. Một hiện tượng khác gây bất mãn không kém là việc buôn bán chức thánh, cũng như tình trạng thối nát trong giáo triều Công giáo Roma. Đối với nhiều người, sự băng hoại này mang tính hệ thống, ngay cả ở vị trí Giáo hoàng.

Trong cuộc tranh luận năm 1519, tu sĩ Martin Luther đã bác bỏ quyền lực tối thượng của ngai Giáo hoàng, cho rằng "quyền cầm giữ chìa khóa của nước Trời” (tượng trưng cho quyền mở đường cho con người vào được Thiên quốc của Chúa) là được ban cho toàn thể Hội thánh – tức tất cả tín hữu; ông cũng khẳng định rằng Giáo hội Roma không giữ vai trò ưu việt nào trong sự cứu rỗi.

Giáo hội Công giáo thời đó đã phản ứng bằng cách tiến hành chiến dịch chấn hưng Công giáo và phản đối Kháng Cách. Bất đồng gia tăng và sau khi thẳng thừng khước từ tuân phục mệnh lệnh của Giáo hoàng, năm 1521, Martin Luther bị khai trừ khỏi giáo hội. Sau đó ông bị coi là kẻ dị giáo và phải sống ẩn nấp để bảo vệ bản thân.

Trong khi đó tại châu Âu, nhiều người có quan điểm tương tự như của Luther cũng bắt đầu tách khỏi Công giáo và thành lập các giáo phái khác nhau. Họ được gọi dưới tên chung là Kháng Cách, hay Tân giáo (để phân biệt với Cựu giáo là Công giáo Roma).

Còn tên gọi Tin Lành (tiếng Anh: Evangelical) bắt nguồn từ chữ Euangelion trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là tin tốt lành (good news) hay phúc âm (gospel). Từ này trong tiếng Đức là Evangelisch và được sử dụng rộng rãi trong những người tham gia vào phong trào tôn giáo ở khu vực nói tiếng Đức bắt đầu từ năm 1517.

Ngoài ra, Tin Lành còn phủ nhận quan điểm của Công giáo Roma về sự hình thành của giáo hội. Họ cho rằng Chúa Giêsu không ủy thác cho Thánh Peter và Thánh Peter cũng không thành lập Giáo hội Roma, mà Giáo hội Roma cũng như địa vị Giáo hoàng là về sau này mới dần xuất hiện trong quá trình phát triển.

Về chính trị, Kháng Cách là một trong những nguyên nhân dẫn tới một chuỗi các cuộc chiến tranh tôn giáo mà đỉnh điểm là cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm từ năm 1618 đến 1648 giữa những người Kháng Cách chủ yếu ở Bắc Âu và những người Công giáo ở Nam Âu.

Cuộc chiến kết thúc vào năm 1648 với Hòa ước Westphalia, theo đó mỗi vương hầu đều có quyền chọn lựa tôn giáo cho lãnh thổ của mình và tín đồ sống trong các lãnh địa không có quốc giáo được quyền thực hành đức tin của mình theo ý muốn.

Phân biệt giữa Công giáo và Tin Lành


Sự giống nhau giữa Công giáo (Thiên Chúa giáo) và Tin Lành

Cả Công giáo và Tin Lành đều lấy Cựu Ước và Tân Ước làm nền tảng cho học thuyết của họ.

Cả Công giáo và Tin Lành đều tôn thờ Thiên Chúa (Đức Chúa Trời), tin thuyết Chúa 3 Ngôi: Ngôi 1 là Cha, Ngôi 2 là Con, Ngôi 3 là Thánh Thần.

Cả hai đều tin là Thiên Chúa tạo dựng ra Trời Đất, Vũ trụ và vạn vật; tin là con người do Thiên Chúa tạo ra, có Tội Tổ Tông; tin là có Ngôi 2 – tức Đức Chúa Jesus Christ giáng trần chịu nạn chết trên Thánh giá để chuộc tội cho loài người; tin là có Ngày Phục Sinh và Ngày Phán Xét cuối cùng.

Sự khác nhau giữa Công giáo (Thiên Chúa giáo) và Tin Lành

Tin Lành chỉ tôn thờ Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giêsu, họ chỉ tôn kính Đức Mẹ Maria và các Thánh đồ chứ không tôn thờ. Còn Công giáo thì tôn thờ tất cả.

Tin Lành chỉ tuân theo Kinh Cựu Ước và Tân Ước. Ngoài hai bộ kinh này ra, Công giáo còn tuân theo các quyết định của Hội đồng Giám mục và Giáo hoàng.

Khi cầu nguyện, người Công giáo phải thông qua linh mục để xưng tội với Chúa, còn người Tin Lành thì chỉ xưng tội với Chúa.

Nhà thờ Thánh Phêrô Nhà thờ Thánh Phê-rô ở Vantican. (Wikipedia)

Nhà thờ Cái Đôi ở tỉnh An Giang, Việt Nam. Nhà thờ Cái Đôi (Công giáo) ở An Giang, Việt Nam. (Wikipedia)

undefined Nhà thờ chính tòa Bùi Chu (Công giáo) ở Việt Nam. (Wikipedia)

Nhà thờ Công giáo thường xây dựng nhà thờ theo kiến trúc Gothic, có nhiều hoa văn, họa tiết tinh xảo, có bàn thờ và nhiều hình ảnh và tranh. Nhà thờ Tin Lành được xây dựng theo kiến trúc hiện đại, không có hình ảnh hoặc bức tượng nào ở trong và ngoài nhà thờ, chỉ có một cây thánh giá tượng trưng cho sự đóng đinh của Chúa Giêsu.

undefined
Nhà thờ Tin Lành ở Tiền Giang, Việt Nam. (Wikipedia)

undefined Nhà thờ Tin Lành ở Slovak. (Wikipedia)

Về giáo hội, Công giáo có giáo hội thống nhất, có cơ quan tối cao là Tòa Thánh Vatican, quyền lực thuộc về Giáo hoàng. Tin Lành không có giáo hội thống nhất, mà chia thành nhiều giáo phái khác nhau, mỗi giáo phái có giáo hội độc lập, tín đồ có thể trực tiếp tham gia các hoạt động của giáo hội hoặc bầu cử.

Tóm lại, Kitô giáo và Cơ Đốc giáo là một; Kitô giáo tách ra làm hai nhánh là Chính thống giáo Đông Phương và Công giáo sau các cuộc Ly giáo; Công giáo và Thiên Chúa giáo cũng là một; và Tin Lành là một nhánh tách ra từ Công giáo vào thế kỷ XVI.

Lời kết

Tuy các tôn giáo, giáo phái phương Tây đều tôn thờ Đức Chúa Trời (Thiên Chúa, Thượng Đế, Đấng Sáng Thế) và Chúa Giêsu, những mỗi tôn giáo, giáo phái lại có những khác biệt nhất định về giáo lý và nghi thức. Đối tượng tín ngưỡng trong Công giáo (Thiên Chúa giáo), Đông Phương Chính thống giáo, hay Tin Lành đều là Chúa Giêsu Kitô. Những khác biệt kia đều không ảnh hưởng đến việc tuyên bố Chúa Giêsu là Đấng cứu rỗi của họ.

Tuy có chung niềm tin cốt lõi, nhưng các tôn giáo, giáo phái phương Tây lại có những khác biệt cụ thể. Trong lịch sử, chỉ vì những khác biệt nhỏ đó mà các tôn giáo, giáo phái phương Tây luôn xảy ra tranh chấp, thậm chí là chiến tranh tôn giáo. Đó đều là trái với lời dạy trong cả Kinh Cựu Ước và Tân Ước, rằng yêu cầu tín đồ phải yêu thương lẫn nhau, yêu thương mọi người, thậm chí yêu thương cả kẻ thù. Người thực sự tin theo Thiên Chúa, Chúa Giêsu chắc chắn là người dốc tâm sức sửa mình, để đạt được sự bao dung, yêu thương rộng lớn. Nhưng những người chỉ cố thủ tôn giáo, bảo vệ tôn giáo của họ, mà không chú ý thực tu, lại chính là người thường đả kích các tôn giáo, giáo phái khác, thậm chí gây mâu thuẫn, chia rẽ.

Bất kể phương Đông hay phương Tây, các bậc Giác Ngộ, Thánh nhân giáng thế giảng Đạo thuyết Pháp cứu độ chúng sinh, đều không thành lập tôn giáo. Tôn giáo chỉ là các tín đồ các đời sau dựng lên, để tiện cho việc hoằng Pháp, truyền Đạo mà thôi. Đức Chúa, Đức Phật, chư Thần chỉ coi trọng nhân tâm, nhìn vào cái tâm con người, chứ không nhìn vào hình thức tôn giáo. Tôn giáo phương Đông và phương Tây đều nói, đến thời kỳ mạt thế cuối cùng, Chúa Sáng Thế, hay Đấng Cứu Thế, hay Đức Phật Di Lặc sẽ giáng thế cứu độ thế nhân, chắc chắc Ngài chỉ nhìn cái tâm con người có hướng thiện không, có nghe theo lời dạy của Chúa, của Phật không, chứ không xem họ xây nhà thờ, xây chùa, đúc tượng, truyền đạo, truyền Pháp như thế nào.
Hay quá
 
Bên trên