• Nhóm kín víp prồ, đỉnh của chóp 👉 xamvn

Tản mạn chuyện tâm linh (Reup)

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
By Cucuvn
20/05/2022

Hôm trước rảnh rỗi tui có vào một vài topic đọc và tự nhiên thích chia sẻ vài trải nghiệm thực tế. Nếu có đạo hữu nào đi ngang qua thấy vui thì ta cùng đàm đạo :))

Bài 1: về thiện trí thức và đạo hữu
- Thiện trí thức nói đơn giản thì phải có trí thức và có tâm hướng Thiện. Không có trí thức mà cứ nói bừa, chẳng phải tự mê hoặc mình hay sao?
- Thứ nữa và quan trọng hơn. Không có trí thức, không phân biệt được đúng sai, thì làm sao biết được việc mình làm, lời mình nói, tâm trí của mình có thực sự hướng Thiện không? Hay lại “đổ dầu vào lửa” “cho cướp mượn đao”?
Càng có trí thức thì nói chuyện càng phải chi tiết, cụ thể. Nhất là chuyện tâm linh, vốn dĩ 99,99% chưa bao giờ nhìn thấy.
Nhìn thấy rồi còn chưa chắc phân biệt được đúng sai. Sao dám nói mình là Thiện?

- Đạo hữu: khác với nhà Phật, chủ trương “vô vi”, “trời xanh vốn dĩ vô tình, không vì người khát mà tạo mưa”. Yếu tố Thiện gần như không có mà quan trọng là hành động phù hợp với sự vận động của trời đất.

- Tuy nhiên, trước chữ Hữu là chữ Đạo. Muốn được xem như bằng hữu, còn phải xem có Đạo hay không?
Nhiều người đến đây lại lầm tưởng, nghĩ rằng Đạo là “phép màu”, là một thứ gì đó cao siêu không tiếp cận được. Rồi tô vẽ này nọ, thêm thắt các yếu tố huyền bí, bảo đấy là Đạo.
Hãy suy nghĩ đơn giản thôi, Đạo là tri thức, là quy luật vận động của mọi sự vật. Hiểu được nguyên lý của “tích điện” thì làm phim về thần Thỏ, không hiểu thì lập điện thờ, khắc bia đá biểu dương công đức.

Thế đấy, quan điểm cá nhân là, đạo nào cũng vậy. Nếu không có tri thức thì là mê tín hết, thậm chí còn chả phải là người theo Đạo. Hết :))
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
2/6/2022
Bài 2: Ma và Quỷ
- Trong thế giới tâm linh, ma được xem như 1 hình thái của linh hồn con người sau khi chết đi. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ ràng giữa 3 dạng thức khác nhau của linh hồn sau khi chết đi.

1. Linh hồn sau khi chết 100 ngày, ở VN và ở khá nhiều quốc gia Châu Á có phong tục - tạm gọi là “giỗ 100 ngày”. Tại sao lại là 100 ngày mà không phải là 7x7=49 ngày hay là 120 ngày?

2. Mật tông Tây Tạng gọi là “Thân Trung Ẩm”, quan niệm rằng sau 100 ngày linh hồn sẽ đi đầu thai kiếp khác.
Các vị Lạt Ma nói rằng, họ có thể trò chuyện được với các linh hồn trong khoảng thời gian này, trước là “an ủi” hoặc “tụng kinh” để các linh hồn này “buông bỏ chấp niệm” đi đầu thai kiếp khác.
Một số người có “năng lực đặc biệt” hoặc ở một số điều kiện “không gian đặc biệt” có thể nhìn thấy các linh hồn này và gọi là Ma.

3. Trong Đạo gọi là “Linh”, lại chia ra làm 3 loại “U Linh”, “Ác Linh”, “Tiên Linh”, tuỳ vào năng lực tu hành mà đi các con đường khác nhau.
- U Linh là các linh hồn bình thường (người thường), sau khi chết sẽ đến các “Thành U Linh” (có nhiều U Linh Thành) để chuẩn bị đi xuống địa ngục (có thể xem là các trạm trung chuyển).
Rất nhiều người dừng chân tại đây để làm việc cho Âm Ti (các công việc hướng dẫn linh hồn) hoặc là bị “kẹt” lại đây, do nhiều lý do khác nhau (sẽ trình bày ở bài khác).

- Ác Linh là các linh hồn “giận dữ”, hoặc “tham lam”, hoặc “chấm mê thế gian” không chịu rời bỏ.
Những linh hồn này bị mắc kẹt tại những “khoảng không gian” hoặc “thời gian” nhất định. Đây là lý do vì sao con người thi thoảng, trong những không gian, điều kiện nhất định sẽ có tiếp xúc với các linh hồn này.
Do thời gian lâu dài, các linh hồn này thường tìm mọi cách để bám vào người sống (dân gian gọi là ám), để “hấp thụ linh khí” của người sống, hòng duy trì sự “tồn tại” và “chấp niệm” của nó (sẽ trình bày sâu hơn ở bài khác).

- Tiên Linh là các linh hồn đã đạt được các thành tựu tu hành to lớn, bản thân họ cũng không hẳn được xem như là “linh hồn” nữa mà trở thành 1 dạng thực thể Thiện, tồn tại giữa các không, thời gian khác nhau.
Tiên Linh cũng có rất nhiều cấp độ khác nhau, nhưng chia ra làm 2 thành tựu chính là Thần và Tiên (sẽ đi sâu hơn ở bài khác).
Nói chung mục đích của người tu Đạo nằm ở đây, trở thành Tiên Linh sau 1 kiếp. Hết :))
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
5/6/2022
5/6/2022
Bài 3 - 3 hồn 7 vía

Người xưa quan niệm con người có tất cả 3 hồn 7 vía, trong đó phần hồn (nhẹ) tượng trưng cho dương khí luôn luôn có xu hướng bay lên. Phần vía (nặng) tượng trưng cho âm khí thì ngược lại, có xu hướng cô đọng, kết tinh.

Cứ 1 hồn sẽ kết hợp với 2 vía tạo thành một thần thức. 3 thần thức này kết nối với nhau bằng 1 vía rất đặc biệt sẽ tạo thành một linh hồn hoàn chỉnh.

Nghe đến đây chắc nhiều thằng sẽ nghĩ rằng mình có tận 3 thần thức, tha hồ làm phép xuất hồn hay tập luyện để 1 thần thức tu hành còn 2 thần thức đi hưởng lạc (như 1 số bộ môn tu tập láo toét hướng dẫn), nhưng đấy là hiểu sai hoàn toàn.

Trong 3 thần thức này thì có tới 2 thần thức đại diện cho “thiên & địa”, là tự nhiên, là bản năng của con người.
Kiểu như đẻ ra đã biết khóc, biết bú, 3 tháng biết lẫy, 7 tháng biết bò, 9 tháng lò dò biết đi… đút trym vào bím là tự động chịch… Không cần ai dạy cũng biết :))

Chỉ có 1 thần thức đại diện cho phần “nhân” là có thể tu tập, tuỳ vào hoàn cảnh giáo dục mà hình thành tính cách của con người. Thế nên đéo có chuyện tách “thần thức”, nhập vào cơ thể này kia để đi “đánh bạc, chơi gái” đâu nhé :))

Nhưng cũng chính vì 1 phần thần thức này có thể tự do suy nghĩ, tự do vận động nên đây cũng chính là nơi phát sinh ra “tham-sân-si” tam độc, và cũng là nơi xây dựng “Chánh-Định-Tuệ” vượt ra khỏi luân hồi, vượt lên trên các “định luật vật lý”.
(Cái này tao không bàn, tự thân chúng mày tìm hiểu mà tu tập)

Ngược lại, các vị thầy mo, phù thủy cũng dựa vào 1 hồn 2 vía này mà tác oai, tác quái. Luyện thành những phép “xuất hồn”, “ly hồn”.. trong đó ghê gớm nhất là “đoạt hồn”, biến 1 con người đang có lý trí trở thành 1 kẻ lờ đờ, sống vật vờ (zombie), để cho các lão ấy sai khiến. Nhẹ thì làm nô lệ, nặng thì đi cướp của giết người thay cho thầy mo, phù thủy. Hết :)
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Câu chuyện thứ nhất - “Xuất Hồn”

Đầu những năm 2000, Hà Nội lúc ấy vẫn còn quê lắm, gần nhà tao có 1 gia đình khá đẹp. Chồng làm GĐ 1 chi nhánh NHNN, vợ làm TP truyền thông cho 1 công ty nước ngoài, gia đình rất khá giả, yên ổn.

Tới đầu năm 2000, khu nhà tao xuất hiện 1 lão thầy bói, không biết từ đâu đến. Ban đầu thì chỉ có một số khách ở các tỉnh lên xem, nhưng sau tin đồn lan dần, nhiều người nói lão xem hay lắm.

Bà chị kia chẳng biết nghe từ đâu, cũng mò sang nhà lão này xem bói. Khổ cái bà này cũng còn trẻ (hơn 30), lại có nhan sắc. Thế là bị lão kia nhìn trúng, câu chuyện bắt đầu từ đây.

Ban đầu lão kia toàn nói chuyện công việc này nọ, lại có vẻ nói đúng nên bà chị tin lắm. Dần dà mang cả chuyện gia đình ra hỏi, lão kia cũng tận tình hướng dẫn.

Cho đến một hôm, lão quyết định ra tay. Trong 1 lần bà chị đến xem, phải nói là lúc này bà chị tin lắm rồi, kiểu bảo gì nghe nấy rồi, lão đề nghị bà chị mang đến cho lão bộ quần áo và 1 bức ảnh để lão làm phép. Bà chị kia ban đầu đắn đo, xong cũng ngu ngu dại dại làm theo lời lão.

Khoảng 1 tuần sau, bà chị này càng ngày càng ngơ ngẩn, làm việc không tập trung, hay nói nhầm lẫn. Thêm một tuần nữa thì không đi làm được, phải ở nhà. Ban ngày thì ngủ mê mệt hoặc đờ đẫn, đêm đến thì bả lại tỉnh táo hay đi lòng vòng ở ngoài khu, miệng cứ lẩm bẩm như đang nói chuyện với ai đó. Gặp người hỏi thì lại chạy biến đi hoặc lẩn vào chỗ tối trốn.
Ông chồng khổ không chịu được, gọi điện cho bệnh viện tâm thần kêu người đến khám bệnh. Hồi ấy nhà nào mà có người bị bệnh tâm thần thì cả khu biết, xì xào sang cả xóm bên. Nhưng lạ cái là mỗi khi có bác sĩ đến hoặc gia đình đưa lên viện thì lại tỉnh táo, nói năng lại sắc sảo như thường. Nhưng về nhà vài hôm thì đâu lại vào đấy. Bác sĩ chỉ nói là bị trầm cảm nặng, có thể do công việc stress, khuyên nên cho nghỉ ở nhà theo dõi.

2 tháng sau, lúc này thì bệnh nặng lắm rồi, bà chị ngơ ngẩn cả ngày lẫn đêm. Chỉ rình rình không ai để ý là chạy sang nhà lão thấy bói, bảo là ở đấy thấy thoải mái. Mà cũng lạ, cứ sang ấy là như người nhà, ăn uống ngủ nghỉ bình thường chỉ nhất định không chịu về nhà với chồng.

Ban đầu lão kia chưa dám làm gì, ra vẻ đạo mạo bảo anh chồng cứ để vợ ở đây để lão ý đọc kinh với làm phép chữa bệnh cho.
Ban đầu ông kia cũng bán tín bán nghi, mà lão kia cũng quỷ quyệt không làm gì hết. Được gần tháng thì bà chị bắt đầu tỉnh táo hơn nhưng nhất định không chịu về nhà nữa. Ông chồng thấy hơn tháng mà không có chuyện gì xảy ra nên đã bớt nghi ngờ, rồi cũng đi làm, đi công tác như trước. Bắt đầu từ lúc này là lão thầy bói làm tới, không có ai là bắt đầu hú hí với bà chị kia.

Dần dà câu chuyện vỡ lở, vì hồi ấy dân vẫn còn thất nghiệp ở nhà nhiều. Đéo có gì giấu diếm được mãi. Lão thầy bói (chắc là đã có chuẩn bị từ trước), được 2 tuần thì biến mất, hỏi thì biết là lão chỉ thuê nhà ở đấy chứ không phải là nhà lão mua. Kinh dị nhất là từ hôm lão thầy bói đi mất, bà chị kia lại ngơ ngẩn tiếp mà càng lúc càng nặng. Nhiều đêm còn không mặc quần áo, chạy sang nhà lão kia đi tìm. Ông chồng biết chuyện thì xấu hổ nhưng không biết làm thế nào.

Được 1 tuần thì bà chị kia cũng biến mất, mọi người đoán là lão thầy bói đến đưa đi mất. Còn ông chồng thì ban đầu cũng báo công an, nhưng chuyện chẳng đâu vào đâu nên công an cũng không đi tìm. Lại thêm ông chồng quá xấu hổ, được vài bữa chuyển nhà đi mất nên câu chuyện dừng lại ở đấy.

Hồi ấy tao còn nhỏ, nghe các ông bà hàng xóm kể lại cũng vãi linh hồn. Sau này hiểu biết hơn thì biết rằng bà chị kia đã dính phải phép “xuất hồn”, bị lão thầy bói lừa, tự đưa mình vào miệng lang sói.

Hết :))
12/6/22#16
Câu chuyện thứ hai - Ly hồn

Khác với phép “Xuất hồn” chủ yếu dùng để chia cắt, giam cầm một phần linh hồn của người xấu số vào các mục đích xấu xa.
Phép “Ly hồn”, lại được các thuật sĩ thời xưa sử dụng để gia tăng phép thuật, vậy thì “Ly hồn” là gì? Phép này có tác dụng gì? Và sử dụng như thế nào?

Như bài trước đã chia sẻ thì con người về cơ bản là có 3 hồn, 7 vía. Trong đó, 2 hồn và 5 vía thuộc về “tự nhiên” con người không thể quản lý được. Chỉ có 1 hồn 2 vía là nghe theo tâm trí, có thể ghi nhớ, học tập và tiến bộ theo thời gian..

Các vị thuật sĩ xưa dựa vào đặc điểm của 1 hồn 2 vía này mà phát triển thành phép “Ly hồn” với mong muốn sớm được “đăng vân”, tiến lên các tầng trời cao hơn để tu hành, học Đạo.. sớm được “cưỡi hạc thăng thiên”..

Đây là phép thuật cho phép “linh hồn” chủ động thoát ly khỏi thân xác vật lý và tiến vào các chiều không gian khác nhau để mưu cầu “học thuật”. Khác hoàn toàn so với phép “xuất hồn” độc địa, giam cầm linh hồn của người khác.

Phép “Ly hồn” muốn thực hành cũng không quá khó, có rất nhiều phương pháp thực hành để có thể trải nghiệm phép “Ly hồn” này. Ví dụ như là “ngồi thiền”, mọi người đều có thể làm được. Hay là phép “Quy tức” của các thuật sĩ cũng có kết quả tương tự nhưng nhanh hơn và mạnh hơn. Hoặc là phép “Nhi tức” của một số đạo sĩ..

Tuy nhiên không phải cứ “ngồi thiền” là có thể làm được phép “Ly hồn”, đa phần các Đạo đều có “pháp chú” để hướng dẫn người tu hành đi đến đúng đích.

Ví dụ như Đạo Phật có pháp chú “Án ma ni bát mê hồng” để đi đến cõi Cực Lạc, hoặc là pháp chú riêng của từng vị Phật (ví dụ như Dược Vương, hay Bồ Tát) để đi gặp/nghe từng vị thuyết Pháp.
Cá nhân tôi theo Đạo Lão nên cũng có biết pháp chú riêng của Đạo Lão. Không biết pháp chú riêng của các môn phái khác nên các đạo hữu phải tự tìm hiểu (trên Google không có đâu nhé) :))

Công dụng: chắc chắn là nhiều đạo hữu sẽ háo hức vụ này. OK - tôi sẽ chia sẻ một số công dụng khá hay và hữu hiệu mà tôi biết.

1. Là tìm kiếm “sư phụ qua đường”, nghe hơi hài nhưng đạo hữu nào có chút đạo hạnh đều đã trải nghiệm qua việc này. Ví dụ như là sau khi “ngồi thiền”, có thể gặp được 1 người nào đó (có thể là trong mơ nhé, tuỳ người) chỉ điểm cho chỗ tu hành đang bị bế tắc. Quá ngon đúng không? :))

2. Là “thực sự” tham gia vào 1 khoá/đợt tu tập nào đó ở một chiều không/thời gian khác. Trải nghiệm này khó “thực hiện” hơn trải nghiệm tìm kiếm “sư phụ qua đường” rất nhiều. Vì ở trải nghiệm trên, đơn giản chỉ là tình cờ (một cách có chủ đích), gặp được 1 người có tu hành cao hơn mình, hướng dẫn/chỉ điểm cho chỗ bế tắc.
Còn “thực sự” trong ngoặc kép, gần như có nghĩa là ngày nào đạo hữu cũng có trải nghiệm giống như mình đang tham gia vào một khoá tu tập/ hoặc là học 1 môn gì đó, trong 1 khoảng thời gian nhất định. Nhanh thì 2-3 ngày, chậm thì 2-3 tuần, thậm chí có người còn có trải nghiệm vài năm.
Và việc này chỉ kết thúc khi bản thân đạo hữu đã tự mình “tham ngộ” (dùng từ riêng), được Pháp/ Đạo.

3. Là thi đấu. Gọi là “thi đấu” vì nó tiệm cận với cách hiểu đúng nhất. Đấy là thi thoảng giữa lúc đang “ngồi thiền” (sau khi đạo hữu tu tập 1 thời gian và có ít nhiều đạo hạnh), sẽ có một vài người đến đòi so tài với đạo hữu. Có rất nhiều kiểu “thi đấu” khác nhau, tuỳ vào năng lực của các đạo hữu.

Ví dụ có người chuyên “thuyết Pháp”, sẽ gặp khoảng 4-5 người rủ đi tranh luận về một đề tài nào đó.
Cũng có người chuyên “chữa bệnh”, gặp người khác rủ đi “chữa” 1 ca khó.
Rất ít người có khả năng “thực chiến”, được người khác đến thách đấu hoặc rủ đi giao đấu với ai đó. Không phải bởi vì “sợ”, mà hành động này có khả năng làm tổn thương đến “linh hồn” nên ít người dám làm..

Phản tác dụng hay lạm dụng: tất nhiên rồi, cái gì lạm dụng hay làm quá cũng đều không tốt hay thậm chí phản tác dụng.

Nhẹ thì “lờ đờ”, “chậm chạp”, vì một phần “hồn vía” đi chơi rồi. Con người lúc ấy sống trong thế giới khác, hỏi “ăn cơm chưa” thì trả lời “vừa tắm xong”.. Ngáo :))

Nặng hơn thì “chìm đắm” trong đó, tự “mê hoặc” bản thân, hoặc đam mê phép thuật này nọ cứ luẩn quẩn trong “ảo mộng”.. Thậm chí nhiều người còn “làm bạn” với yêu ma mà không biết, tự đưa mình vào cạm bẫy, đánh mất hết lý trí..

Tệ nhất là “linh hồn” bị tổn thương, có thể dẫn đến tình trạng người thực vật. Lúc ấy thân thể bị yêu ma hay thậm chí 1 loài động vật nào đó “chiếm đoạt” (cáo, chồn, rắn..).
Cá nhân tôi đã từng thấy 1 người bị cáo nhập, lúc nào cũng quấn khăn trên đầu, (che con cáo đi), nói là cứ mở khăn ra là đau đầu, rất khổ sở..

Tóm lại là, phép “Ly hồn” là một phép thuật dễ thực hành, có công dụng tăng cường năng lực tu hành, vượt qua những chỗ “bế tắc”. Nhưng không nên lạm dụng, rất dễ bị tổn thương nếu đạo hạnh thấp. Hết :))
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Hôm nay chia sẻ thêm với các đạo hữu về 1 pháp thuật có tên là: “Thu hồn đoạt phách”

Câu chuyện thứ ba: Thu hồn đoạt phách
Pháp thuật vốn dĩ không phân biệt “chính” hay “tà”, chỉ tuỳ thuộc vào mục đích và phương pháp sử dụng mà phân loại :))

- Những ai đã từng đọc qua “Phong thần diễn nghĩa” chắc còn nhớ Khương Tử Nha cũng vài lần dính chiêu này, lẫn cả sử dụng pháp thuật này. Vậy “Thu hồn đoạt phách” là gì và tác dụng của pháp thuật này là gì?

- Trước tiên thì “Thu hồn đoạt phách” cũng dựa vào “1 hồn 2 vía” đã chia sẻ ở các bài trước. Khác ở đây là “hồn” và “phách” bị pháp thuật phân tách ra thành các phần khác nhau và bị “mê hoặc” hay “cám dỗ” bởi các trận pháp khác nhau thu hút.

Vốn dĩ linh hồn của con người được “tự nhiên” gắn kết rất chặt chẽ. Gần như không thể phá hủy (bất diệt như nhiều tôn giáo đã thừa nhận).

Do vậy, mục đích chính của các trận pháp này để chia tách linh hồn của người bị hại, không cho các hồn vía này kết hợp với nhau. Cơ sở của sự “chia tách” và “thu hút” này chính là tam độc “Tham”-“Sân”-“Si” =((
Con người nói chung đều bị chi phối bởi các ham muốn này, nó gần như là bản ngã của con người, do môi trường sống nhào nặn mà thành. (Cái này Phật giáo chia sẻ rất chi tiết, đạo hữu chịu khó nghiên cứu là sẽ rõ ràng).

Quay lại với các trận pháp, bao gồm 1 trận chính và 3 trận hỗ trợ, như sau:
1. Trận chính - có tên là trận “Thu Hồn”, thường là một bức tranh miêu tả lại sở thích (Tham-Sân-Si) của người bị hại
2. 3 Trận hỗ trợ - có tên là:
- Trận Nhiếp Hồn, mục đích là “mê hoặc” hồn phách của người
- Trận Lạc Hồn, mục đích là duy trì sự “mê hoặc” và dẫn dụ linh hồn bị hại duy trì “chấp niệm”, không tự thoát ra khỏi trận pháp
- Trận Định Hồn, mục đích là tạo ra sự ổn định giả tạo, khiến cho 1 hồn 2 vía luôn luôn có cảm giác như đang ở trong thân xác nhưng thực tế thì bị “lạc lối” ở trong trận pháp

3 trận pháp này kết hợp với 1 số phương pháp thi triển vào thời điểm nhất định sẽ được các thuật sĩ sử dụng để “Thu hồn phách” của đối tượng, giam giữ không quá 100 ngày (nếu không đối tượng sẽ chết) =((

Vì mục đích không tốt lành của trận pháp nên tôi sẽ không mô tả chi tiết các trận pháp này. Thế nên quý đạo hữu đừng hỏi sâu, chỉ là đọc tham khảo cho biết thôi.

Duy chỉ có các Thiện Trí Thức sử dụng pháp thuật này vào việc cứu người (trong trường hợp thân thể gặp phải tai nạn nghiêm trọng, bắt buộc phải “Thu Hồn Phách” lại để chữa trị cho thân xác nếu không sẽ chết).

… Có lẽ không nên chia sẻ bài này
. Hết =((
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Câu chuyện thứ tư, cũng là câu chuyện cuối trong series về các pháp thuật liên quan đến “3 hồn 7 vía”.

Câu chuyện thứ tư: “Đoạt hồn”
- Trong số các pháp thuật thao túng “hồn phách” thì phép “Đoạt hồn” đứng cuối cùng.. Đồng thời cũng là pháp thuật ghê gớm nhất, đen tối và xấu xa nhất..
- Không hề có khía cạnh tốt, “thiện” trong pháp thuật này, do vậy “Đoạt hồn” bị liệt vào danh sách những pháp thuật bị cấm..
- Chính vì thế, tôi sẽ chỉ kể một số hình thức và phương pháp thực hiện để miêu tả phép thuật này, chứ không đi vào chi tiết..

Biến tướng của phép “Thu hồn đoạt phách” (đã được giới thiệu ở bài trước). Hành động cuối cùng của phép “Thu hồn đoạt phách”, là trả lại linh hồn hay chiếm đoạt hồn phách..

Đây chính là ranh giới cuối cùng giữa “Thiện” và “Ác, các vị “Thiện trí thức”, “Chân đạo sĩ” sẽ gia trì hồn phách của người bệnh và trả lại cho họ (mục đích là chữa bệnh). Còn những kẻ “Ác tăng”, “Giả đạo sĩ”, “Ma thuật sĩ” thì sẽ cướp đoạt và giam cầm hồn phách.

Pháp bảo họ thường sử dụng là “Hồ lô âm dương” hoặc là “Ấn Trụ Hồn” hay là “Gông Ma”. Các vị chân tu mỗi khi nhìn thấy kẻ nào sử dụng các pháp bảo này chắc chắn sẽ quyết đấu với những kẻ này để phá hủy pháp bảo hòng giải thoát/siêu độ cho các linh hồn xấu số. “Trụ Ma Vệ Đạo” là trách nhiệm và nghĩa vụ của các vị chân tu.

Tuy nhiên đa phần bản thể của các linh hồn này đều đã chết nên việc này chủ yếu để giải thoát hay siêu độ cho các linh hồn này, chứ không thể cứu rỗi được chúng sinh..

Hiện nay ở Thái Lan, Miến Điện là những nơi vẫn còn tồn tại nhiều “Ác Tăng” kiểu này. Phổ biến nhất là búp bê ma KumaThông, chính là biến tướng cướp đoạt hồn phách của những đứa trẻ con, thông qua bùa ngải mà ép nhập vào những con búp bê vô tri giác hòng kiếm lợi.

Còn tiếp..
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Câu chuyện 4,5: “Đoạt hồn”

Pháp thuật “Đoạt hồn” vì sao bị liệt vào danh sách các pháp thuật bị cấm. Bài viết ngày hôm nay sẽ mô tả một vài thủ đoạn của các thầy mo, phù thủy, pháp sư thời xưa sử dụng để “Đoạt hồn”.

Vào thời kỳ sơ khai của loài người, hình thức chính quyền thời ấy chủ yếu là các bộ lạc cát cứ ở các khu vực, và chưa có tôn giáo nào “khởi phát”.

Tuy nhiên, ngay từ lúc ấy, con người đã có niềm tin rất lớn vào “linh hồn” và thế giới tâm linh. Họ tin rằng thế giới tâm linh có thật và cách duy nhất để liên lạc với thế giới tâm linh là thông qua các linh hồn, hoặc “lời sấm” của “người đại diện”.

Vào thời gian ấy, sinh mạng của con người có giá trị rất thấp, đặc biệt là tầng lớp thấp và nô lệ thì gần như ngang ngửa với súc vật. Do vậy có rất nhiều thầy mo, phù thủy lợi dụng niềm tin của tầng lớp thống trị, tạo ra rất nhiều lễ tế hình thức quái đản nhằm mục tiêu liên lạc với “thần linh” thông qua các buổi lễ tế thần hay cực hình tàn bạo.

1. Pháp thuật “Đoạt hồn” thời thượng cổ.
- Hàng năm vào các dịp lễ lớn, người xưa tuyển chọn ra các cô gái còn trinh (còn trinh tức là tinh khiết, gần gũi với thần linh) để dâng hiến cho thần linh. Đây là 1 hoạt động rất nghiêm túc và mang tính chất linh thiêng, người dân của cả bộ lạc sẽ chứng kiến từ đầu tới cuối để chiêm nghiệm về “lời răn dạy” của thần tiên..
- Các vị pháp sư sẽ đưa các cô gái lên tế đàn, trên đó đã được bố trí sẵn sàng 1 trận pháp gọi là: Trận “Tế Hồn”, bao gồm thủ cấp của:
- 3 loại gia súc là: Trâu, ngựa, dê
- 3 loại gia cầm là: Gà, vịt, ngỗng
- 3 loại động vật thiêng là: Hươu, Gấu, Hổ
- 3 loại động vật ác là: Hồ ly, Rắn, Cú mèo
Máu của chúng được sử dụng để vẽ pháp trận và bùa chú.

- Các cô gái sẽ được uống 1 loại bí dược (kiểu như thuốc phiện), khiến cho họ rơi vào ảo giác, mất đi thần trí. Sau đó các pháp sư sẽ trói họ vào cột và tiến hành “lột da” các cô gái ngay trong lúc họ còn sống.. vào lúc những cô gái này sắp chết.. thay vì đau đớn, gào khóc thì lúc này các cô gái (do tác dụng của trận pháp và bí dược) lại thì thầm như đang trò chuyện với “thần linh”.. lúc này, chỉ có các pháp sư cao cấp nhất hoặc người đứng đầu bộ lạc mới có quyền ghé tai lắng nghe những lời nói ấy, rồi truyền đạt lại cho người dân đang chờ ở dưới đài..
- Người thượng cổ gọi đây là phép “Tế Hồn”, cướp đoạt linh hồn của các cô gái trẻ để tế cho các vị thần linh mà họ thờ phụng nhằm dò hỏi về thời tiết, mùa màng, chiến tranh và dịch bệnh.
 

Thomas_lean

Yếu sinh lý
Thời hiện đại có vé số đại pháp đây! :ROFLMAO::ROFLMAO::ROFLMAO:
 

Đính kèm

  • 6292707807983509705.mp4
    2.7 MB

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Câu chuyện 4,5: “Đoạt hồn”

Pháp thuật “Đoạt hồn” vì sao bị liệt vào danh sách các pháp thuật bị cấm. Bài viết ngày hôm nay sẽ mô tả một vài thủ đoạn của các thầy mo, phù thủy, pháp sư thời xưa sử dụng để “Đoạt hồn”.

Vào thời kỳ sơ khai của loài người, hình thức chính quyền thời ấy chủ yếu là các bộ lạc cát cứ ở các khu vực, và chưa có tôn giáo nào “khởi phát”.

Tuy nhiên, ngay từ lúc ấy, con người đã có niềm tin rất lớn vào “linh hồn” và thế giới tâm linh. Họ tin rằng thế giới tâm linh có thật và cách duy nhất để liên lạc với thế giới tâm linh là thông qua các linh hồn, hoặc “lời sấm” của “người đại diện”.

Vào thời gian ấy, sinh mạng của con người có giá trị rất thấp, đặc biệt là tầng lớp thấp và nô lệ thì gần như ngang ngửa với súc vật. Do vậy có rất nhiều thầy mo, phù thủy lợi dụng niềm tin của tầng lớp thống trị, tạo ra rất nhiều lễ tế hình thức quái đản nhằm mục tiêu liên lạc với “thần linh” thông qua các buổi lễ tế thần hay cực hình tàn bạo.

1. Pháp thuật “Đoạt hồn” thời thượng cổ.
- Hàng năm vào các dịp lễ lớn, người xưa tuyển chọn ra các cô gái còn trinh (còn trinh tức là tinh khiết, gần gũi với thần linh) để dâng hiến cho thần linh. Đây là 1 hoạt động rất nghiêm túc và mang tính chất linh thiêng, người dân của cả bộ lạc sẽ chứng kiến từ đầu tới cuối để chiêm nghiệm về “lời răn dạy” của thần tiên..
- Các vị pháp sư sẽ đưa các cô gái lên tế đàn, trên đó đã được bố trí sẵn sàng 1 trận pháp gọi là: Trận “Tế Hồn”, bao gồm thủ cấp của:
- 3 loại gia súc là: Trâu, ngựa, dê
- 3 loại gia cầm là: Gà, vịt, ngỗng
- 3 loại động vật thiêng là: Hươu, Gấu, Hổ
- 3 loại động vật ác là: Hồ ly, Rắn, Cú mèo
Máu của chúng được sử dụng để vẽ pháp trận và bùa chú.

- Các cô gái sẽ được uống 1 loại bí dược (kiểu như thuốc phiện), khiến cho họ rơi vào ảo giác, mất đi thần trí. Sau đó các pháp sư sẽ trói họ vào cột và tiến hành “lột da” các cô gái ngay trong lúc họ còn sống.. vào lúc những cô gái này sắp chết.. thay vì đau đớn, gào khóc thì lúc này các cô gái (do tác dụng của trận pháp và bí dược) lại thì thầm như đang trò chuyện với “thần linh”.. lúc này, chỉ có các pháp sư cao cấp nhất hoặc người đứng đầu bộ lạc mới có quyền ghé tai lắng nghe những lời nói ấy, rồi truyền đạt lại cho người dân đang chờ ở dưới đài..
- Người thượng cổ gọi đây là phép “Tế Hồn”, cướp đoạt linh hồn của các cô gái trẻ để tế cho các vị thần linh mà họ thờ phụng nhằm dò hỏi về thời tiết, mùa màng, chiến tranh và dịch bệnh.
Còn tiếp..
Bấm để mở rộng...
Pháp thuật “Đoạt hồn” vì sao bị liệt vào danh sách các pháp thuật bị cấm. Bài viết ngày hôm nay sẽ mô tả tiếp một vài thủ đoạn của các thầy mo, phù thủy, pháp sư thời xưa sử dụng để “Đoạt hồn”

Đi qua thời kỳ thượng cổ, loài người cũng đã có nhiều tiến bộ hơn, các tục lệ cổ xưa dần dần biến mất theo thời gian và sự tiến bộ của con người. Nhưng điều hay, lẽ phải được phát triển thì các pháp thuật tà ác cũng được cải tiến theo những cách càng ngày càng quái dị và độc ác hơn nữa..

Vào thời kỳ “Đông Chu Liệt Quốc” ở đất nước Trung Quốc cổ đại, lúc này đã qua thời kỳ bộ lạc dần tiến lên thời kỳ xuất hiện các quốc gia đầu tiên, có bộ máy chính quyền và các tôn giáo khác nhau với sự hỗ trợ của các vị “đế vương” cũng được phát triển một cách có hệ thống, có lập luận và giáo lý đầy đủ.

Pháp thuật “Đoạt hồn” trong giai đoạn này không còn được sử dụng để “xem bói” hay tổ chức các “lễ tế thần linh” nữa, mà dần dần trở thành một công cụ của giới cầm quyền nhằm trừng phạt hay ám sát các đối thủ chính trị. Có rất nhiều phương pháp được phát triển để triển khai pháp thuật, tuy nhiên cũng bởi vì các phương pháp này quá tàn ác nên dần dà đều đã thất truyền qua thời gian.

1. Thời kỳ này, tội nặng nhất là tội mưu phản. Các vị Đế vương của các triều đại đều đề ra các hình phạt cực kỳ dã man để trừng trị tất cả những kẻ muốn tạo phản, không để ra một con đường sống nào..

Có thể ví dụ như “lăng trì, tùng xẻo, thả vạc dầu hay ngũ mã phanh thây..” nhưng đấy vẫn là các hình phạt được công khai tiến hành nhằm thị uy dân chúng. Còn các hình phạt được áp dụng trong bóng tối mới thực sự kinh khủng. Pháp thuật “Đoạt hồn” giai đoạn này chính là 1 trong những hình phạt kinh dị nhất.

2 - Khi Đế vương bắt được 1 kẻ (trong hoàng tộc) có âm mưu tạo phản (vì là người của hoàng gia nên phải xử kín, không thể công khai cho bàn dân thiên hạ biết được).

- Đầu tiên các thuật sĩ sẽ trói nạn nhân vào 1 cái giường đặc biệt tên là Giường Đan Công do 1 vị thuật sĩ thời Sở Lưu Vương sáng chế ra. Nó có thể xoay được các hướng, để dễ dàng tiến hành các thủ thuật.

- Sau đó họ sẽ tiến hành châm cứu dọc theo xương sống của nạn nhân.. Phương pháp này khiến cho nạn nhân bị tê liệt hoàn toàn, không thể cử động được đầu, cơ thể và chân tay.

- Tiếp theo đó, các thuật sĩ sẽ dùng đến 36 cái “Tiêu Hồn Châm”, mỗi cái dài 10 tấc (khoảng 30cm), có khoá ở đầu cuối cây trâm.

- Trực tiếp cắm vào 36 đại huyệt trên 12 đường kinh và 2 đường mạch Nhâm Đốc. Hành động này khiến cho nạn nhân toàn thân xuất huyết ồ ạt (vì người xưa tin rằng linh hồn của con người trú ẩn trực tiếp trong máu). Đến khi nạn nhân hôn mê do mất máu quá nhiều thì các thuật sĩ khoá “Tiêu Hồn Châm” lại, không cho nạn nhân bị chết.

- Tiếp theo đó lại cắm tiếp 1 cây “Tiêu Hồn Châm” đặc biệt thẳng vào “Thiên Linh Cái”, mục đích của hành động này chính là muốn “Đoạt Hồn Phách” của nạn nhân. Khiến cho nạn nhân bay hồn lạc phách, hoàn toàn biến thành 1 kẻ vô tri giác .. để cho các thuật sĩ sai khiến..

- Điều dã man nhất là nạn nhân hoàn toàn trong trạng thái tỉnh táo, cảm nhận rõ ràng sự đau đớn của hình thức tra tấn cho đến khi mê man ngất xỉu vì bị mất máu quá nhiều.. và cuối cùng bị các thuật sĩ tước đoạt mất linh hồn.

3 - Pháp thuật “Đoạt Hồn” vẫn chưa dừng lại ở đây .. Các nạn nhân của pháp thuật “Đoạt Hồn” do bị tước đoạt mất hồn phách nên thân thể không còn hoạt động đúng chức năng nữa. Thông thường thì họ không sống được quá 5-6 năm là cơ thể tự động thoái hoá và chết đi.

- Tuy nhiên Đế vương và các thuật sĩ lại không để cho họ chết một cách dễ dàng.. Trước khi các nạn nhân chết đi, họ lại bị tra tấn bằng pháp thuật “Đoạt Hồn” một lần nữa.. Nhưng lần này còn dã man hơn cả lần trước.. Sau khi bị mất máu quá nhiều, họ sẽ bị các thuật sĩ ép uống 1 loại hỗn hợp gồm tiết trâu, chó mực và rắn hổ mang trộn lẫn vào nhau..

- Các thuật sĩ tin rằng bằng cách này, họ sẽ hoàn toàn tiêu diệt được hồn phách của nạn nhân, khiến cho họ bị “hồn phi phách tán”, linh hồn hoàn toàn tan biến hết không thể chuyển sinh sang kiếp khác để báo thù.

Thân thể của nạn nhân sẽ bị giam cầm trong các quan tài bằng đồng (sau là bằng sắt) vì các thuật sĩ lo ngại nạn nhân sau khi uống hỗn hợp máu “trâu, chó mực và rắn hổ mang”, chết đi sẽ biến thành “Cương Thi” gây hại cho nhân gian nên phải vĩnh viễn giam cầm trong các quan tài sắt, không thể trốn thoát được..

Phải nói rằng càng về sau, thì pháp thuật “Đoạt Hồn” càng trở nên dã man, độc ác hơn rất nhiều. Nạn nhân không những bị chết về thể xác, mà linh hồn bị giam cầm làm nô lệ, chết đi còn bị biến thành “Cương Thì”, linh hồn hoàn toàn tan biến. Phải nói là “vạn kiếp bất phục, vĩnh viễn không thể siêu sinh”.

Quả thực là quá tàn nhẫn !!!
Hết
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Hôm nay tôi sẽ chia sẻ một chút về 2 loại pháp bảo khá là thú vị. Nhiều bạn có thể sử dụng để trải nghiệm một chút về “thế giới tâm linh”.

1. Pháp bảo thứ nhất là: “Táng Hồn Đăng”
Mục đích chính của pháp bảo là mời gọi một số linh hồn đến để trò chuyện. Các vị thuật sĩ thời xưa hay sử dụng pháp bảo này để tìm cách trò chuyện với các tiên nhân trong rừng sâu núi thẳm.

Về hình dáng, “Táng Hồn Đăng” có khá nhiều kiểu dáng, tuỳ theo phong tục của từng địa phương, phổ biến nhất là giống 1 cái đèn dầu. Có thân đèn, tai chụp, bấc đèn và bóng. Cái khác ở đây là nguyên liệu để làm ra “Táng Hồn Đăng”

Thời xưa các vị thuật sĩ sử dụng “xương người chết 100 năm tuổi trở lên”, sau đó nghiền thành bột, luyện hoá cùng chu sa, hoặc thủy ngân. Nếu dùng chu sa thì bột xương sẽ có màu đỏ như máu, nếu dùng thủy ngân thì sẽ có màu xanh lục. Cuối cùng là họ cho bột vào trong thân đèn, mỗi lần sử dụng thì phải lấy mỡ người nhỏ vào đấy làm nguyên liệu (tởm vãi)..

Bấc đèn được làm từ ruột người chết, sao khô và xoắn lại (có nơi lạc hậu và dã man hơn nữa thì dùng ruột của trẻ con bị chết..)

Bóng đèn thì đặc biệt hơn, chủ yếu là làm từ các loại đá quý khác nhau. Vì các thuật sĩ tin rằng các loại đá khác nhau sẽ có thể soi được các dạng linh hồn khác nhau. Đen tối và tà ác nhất chính là sử dụng “xương người chết” qua luyện hoá mà có màu xanh lục, giống như màu ma trơi. Vật này chuyên dùng để gọi tà ma, chứ không soi được các linh hồn khác.

Tuy nhiên thì về sau này, có thể là do văn minh tiến bộ du nhập, mà các vị thuật sĩ nhận ra rằng thay thế “xương người chết” bằng xương của động vật cũng được, “mỡ trẻ con” thay thế bằng mỡ động vật thì kết quả vẫn thế. Nên “Táng Hồn Đăng” thời hiện đại cũng bớt tà ác đi nhiều.

Cũng có một truyền thuyết khác của một nhánh thuật sĩ nói rằng. “Táng Hồn Đăng”, còn gọi là “Toả Hồn Đăng”, sử dụng “xương người chết” làm vật dẫn, giam giữ linh hồn của những người bị “Đoạt Hồn” vào trong thân đèn. Không sử dụng mỡ người làm nguyên liệu mà sử dụng “Tam muội chân hỏa” của chính mình, đốt cháy các linh hồn để triệu hồi tà thần.
Pháp thuật này chỉ khi nào lâm vào bước đường cùng, gặp phải đối thủ quá mạnh thì mới được sử dụng. Bởi vì các linh hồn sau khi bị thiêu đốt sẽ tan biến rất nhanh, thuật sĩ khu động pháp thuật sẽ phải “đốt cháy” chính linh hồn của mình để duy trì thuật pháp, triệu hồi tà thần. Sau đó chắc chắn sẽ trở nên “điên dại” mất hết lý trí vì linh hồn của chính thuật sĩ đã bị “thiêu đốt” hoàn toàn.
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Pháp bảo thứ hai được gọi là: “Chiêu Hồn Kính” hoặc “Thâu Hồn Kính”

Mục đích chế tạo của “Chiêu Hồn Kính” là để kết hợp với “Táng Hồn Đăng” nhằm tăng cường năng lực pháp thuật và kéo dài thời gian tương tác với các linh hồn.

Về hình dáng thì đây là gương đồng xanh, mặt gương hình tròn thân gương hình bầu dục. Phía trên có khắc “Tâm Nhãn - con mắt thứ ba”, hai bên khắc pháp chú “Chiêu Hồn”, khối đế có thể là hình khắc “U Linh Thành” hoặc là “Tinh Hồn Trại”.

Đặc biệt có 1 số rất ít “Chiêu Hồn Kính” khắc “Âm Dương Cửu Chuyển Hồn Trận” để triệu hồi “thần tiên” (địa tiên). Đây là hàng rất rất hiếm, chỉ có một số thuật sĩ có pháp lực mạnh mẽ mới dám sử dụng.

Đây là pháp bảo hỗ trợ, nên nếu không có “Táng Hồn Đăng” duy trì pháp thuật thì không thể tương tác được với linh hồn. Ngoài ra, nếu cố tình sử dụng thì chỉ có thể gọi lên các linh hồn tà ác, sẽ bị chúng “mê hoặc” hay thậm chí “Đoạt Hồn”.

“Chiêu Hồn Kính” công dụng hoàn toàn khác với “Trấn Hồn Kính” dùng để chế ngự “tà linh, ác ma”. Hôm nào rảnh rỗi sẽ giới thiệu về “Trấn Hồn Kính” sau vậy.
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Trước tiên tôi xin có lời cám ơn một số bạn đã động viên tôi bỏ qua những lời ong tiếng ve và tiếp tục chia sẻ Đạo pháp. Ngoài ra, tiếp thu ý kiến đóng góp của các bạn, bắt đầu từ bài này tôi sẽ hạn chế chia sẻ các pháp thuật đen tối và bắt đầu đi sâu hơn về Đạo pháp.

Hiện tại thì tôi có chia sẻ 2 topic, 1 là topic này (sẽ tập trung chia sẻ Đạo pháp), và 1 topic chia sẻ các câu chuyện thần tiên, các tao ngộ kỳ lạ liên quan đến U Linh Thành.

OK, bắt đầu nhé. Nhập môn của Đạo pháp có tất cả 2 bước cơ bản. Đây là nền tảng cho tất cả những con đường sau này của các bạn. Và tôi cũng nói luôn, con đường ấy là “chính” hay là “tà” hoàn toàn phụ thuộc vào cách nhìn và mong muốn của các bạn.

“Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn”
“Huyền tẫn chi môn, thị vị Thiên địa căn”
“Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần”
Dịch nghĩa:
“Cốc thần bất tử vì biết được Huyền tẫn”
“Cánh cửa “chạm đến” Huyền tẫn, chính là “gốc rễ” của Trời đất”
“Vĩnh viễn trường tồn, dùng mãi không hết”

Huyền là “Trời”, cũng tức là dương khí
Tẫn là “Đất”, cũng tức là âm khí
“Trời” và “Đất” hợp lại, cũng tức là 2 khí âm dương hợp lại sẽ hình thành Thái Cực.

“Cánh cửa “chạm đến” Huyền tẫn “ở người” chính là huyệt Đan Điền. Ở chỗ “Hư Không”, vận dụng 2 khí âm dương của chính bản thân mình mà tạo thành “Thái Cực”. Đây chính là gốc rễ của Đạo pháp.

Trên đây là phương pháp tu tập cơ bản của Đạo pháp, sẽ giúp các bạn hình thành và kiểm soát được “Khí” của chính mình.
Tuy nhiên, chỉ tập trung luyện khí là không đủ, các bạn còn phải tăng cường tập luyện cơ thể vật lý “cơ bắp” của mình nữa. Vì sao vậy?

- Bạn muốn khám phá những vùng đất kỳ diệu?
- Bạn muốn có sức mạnh để đối đầu với các thực thể tà ác?
- Bạn muốn đạt đến các tầng cao của Đạo pháp?
Nói đơn giản là không có sức khỏe thì các bạn chỉ có thể trong “ảo mộng” thực hiện các việc ấy mà thôi. Thời buổi hiện đại, các phòng tập gym có rất nhiều, các bạn có thể tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có để tập luyện sức khỏe. Cần nhớ thêm là càng tập luyện nhiều về cơ bắp thì “dương khí” càng thịnh, do vậy các bạn nên tận dụng thời gian cuối ngày “luyện khí” để dung hoà thành tựu đã đạt được.

Điều cuối cùng tôi muốn chia sẻ với các bạn là cơ thể của con người rất yếu đuối. Nóng không chịu được quá 50 độ, rét cũng không chịu được quá 0 độ, điện 220v giật cũng chết chứ đừng nói là sét đánh.

Thời xưa bước chân vào rừng là đối đầu với hổ báo xài lang , xuống sông có cá sấu, thuồng luồng.. nhưng các vị tu chân vẫn chọn những nơi “núi cao, cùng cốc” để tập luyện. Muốn vậy phải có sức khỏe và võ thuật thì mới tồn tại được. Thời nay không còn những nguy hiểm ấy nữa, nhưng không vì thế mà chúng ta lười biếng không chịu tập luyện.

Cuối cùng vẫn phải nói câu: “Dục tốc bất đạt”, chúng ta có thời gian và nhất là chúng ta cần kiềm chế “tính tò mò”. Trong quá trình tu tập, không phải cái gì cũng tốt, không phải cái gì cũng học. Hãy lựa chọn cho mình con đường phù hợp nhất.
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
dạo 2 năm trước t còn mơ đánh nhau với ma cơ. dậy xong là hôm sau căng cơ vai nghỉ gym 2 tháng liền. Mơ dậy là ê ẩm cả người nhé.
Cũng trong đợt dó đấu "chưởng " với 1 con ma khác trong mơ, d m dính chưởng như "sư tử hống" của nó thì đầu nó " đinh tai nhức óc" , rặn từng chữ kinh phật, đến hồi thứ 3 thì thoát. Tỉnh dậy đầu đau như búa bổ luôn.
Rồi xong thì cũng đéo thấy sợ dù gặp thật hay gặp trong mơ.
Sau khi tập luyện một thời gian, có một số bạn sẽ gặp phải tình huống giống như vậy. Tức là tự nhiên có người không quen biết đến thách đấu.

Học võ thì thách đấu võ, thậm chí chả cần thách, lao vào bem luôn.
Học văn, vẽ tranh, làm thơ thì bị gọi, thậm chí là “lôi” đi bình văn, trách móc, chửi bới

Cái này gọi là “Ma Luyện”, là những người ngang cấp độ với mình, đều muốn “vượt ải” nên làm ra “Ma Luyện”. Một thời gian ngắn là hết, không ảnh hưởng mấy. Nhưng đau vẫn là đau, phải vượt qua thôi.

Nguy hiểm nhất là gặp phải “Quỷ Luyện”, là những yêu quỷ cấp thấp, muốn tu luyện nhưng lại không dám đấu với quỷ cấp cao. Bèn kiếm người thách đấu, nếu thua sẽ bị nó cướp đoạt năng lực. Nhiều người phải tập lại từ đầu, dễ sinh ra chán nản.
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Trước tiên tôi xin có lời cám ơn một số bạn đã động viên tôi bỏ qua những lời ong tiếng ve và tiếp tục chia sẻ Đạo pháp. Ngoài ra, tiếp thu ý kiến đóng góp của các bạn, bắt đầu từ bài này tôi sẽ hạn chế chia sẻ các pháp thuật đen tối và bắt đầu đi sâu hơn về Đạo pháp.

Hiện tại thì tôi có chia sẻ 2 topic, 1 là topic này (sẽ tập trung chia sẻ Đạo pháp), và 1 topic chia sẻ các câu chuyện thần tiên, các tao ngộ kỳ lạ liên quan đến U Linh Thành.

OK, bắt đầu nhé. Nhập môn của Đạo pháp có tất cả 2 bước cơ bản. Đây là nền tảng cho tất cả những con đường sau này của các bạn. Và tôi cũng nói luôn, con đường ấy là “chính” hay là “tà” hoàn toàn phụ thuộc vào cách nhìn và mong muốn của các bạn.

“Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn”
“Huyền tẫn chi môn, thị vị Thiên địa căn”
“Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần”
Dịch nghĩa:
“Cốc thần bất tử vì biết được Huyền tẫn”
“Cánh cửa “chạm đến” Huyền tẫn, chính là “gốc rễ” của Trời đất”
“Vĩnh viễn trường tồn, dùng mãi không hết”

Huyền là “Trời”, cũng tức là dương khí
Tẫn là “Đất”, cũng tức là âm khí
“Trời” và “Đất” hợp lại, cũng tức là 2 khí âm dương hợp lại sẽ hình thành Thái Cực.

“Cánh cửa “chạm đến” Huyền tẫn “ở người” chính là huyệt Đan Điền. Ở chỗ “Hư Không”, vận dụng 2 khí âm dương của chính bản thân mình mà tạo thành “Thái Cực”. Đây chính là gốc rễ của Đạo pháp.

Trên đây là phương pháp tu tập cơ bản của Đạo pháp, sẽ giúp các bạn hình thành và kiểm soát được “Khí” của chính mình.
Tuy nhiên, chỉ tập trung luyện khí là không đủ, các bạn còn phải tăng cường tập luyện cơ thể vật lý “cơ bắp” của mình nữa. Vì sao vậy?

- Bạn muốn khám phá những vùng đất kỳ diệu?
- Bạn muốn có sức mạnh để đối đầu với các thực thể tà ác?
- Bạn muốn đạt đến các tầng cao của Đạo pháp?
Nói đơn giản là không có sức khỏe thì các bạn chỉ có thể trong “ảo mộng” thực hiện các việc ấy mà thôi. Thời buổi hiện đại, các phòng tập gym có rất nhiều, các bạn có thể tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có để tập luyện sức khỏe. Cần nhớ thêm là càng tập luyện nhiều về cơ bắp thì “dương khí” càng thịnh, do vậy các bạn nên tận dụng thời gian cuối ngày “luyện khí” để dung hoà thành tựu đã đạt được.

Điều cuối cùng tôi muốn chia sẻ với các bạn là cơ thể của con người rất yếu đuối. Nóng không chịu được quá 50 độ, rét cũng không chịu được quá 0 độ, điện 220v giật cũng chết chứ đừng nói là sét đánh.

Thời xưa bước chân vào rừng là đối đầu với hổ báo xài lang , xuống sông có cá sấu, thuồng luồng.. nhưng các vị tu chân vẫn chọn những nơi “núi cao, cùng cốc” để tập luyện. Muốn vậy phải có sức khỏe và võ thuật thì mới tồn tại được. Thời nay không còn những nguy hiểm ấy nữa, nhưng không vì thế mà chúng ta lười biếng không chịu tập luyện.

Cuối cùng vẫn phải nói câu: “Dục tốc bất đạt”, chúng ta có thời gian và nhất là chúng ta cần kiềm chế “tính tò mò”. Trong quá trình tu tập, không phải cái gì cũng tốt, không phải cái gì cũng học. Hãy lựa chọn cho mình con đường phù hợp nhất.
Đằng nào cũng không ngủ được, thôi thì chia sẻ với các bạn bài thứ hai. Bài này rất quan trọng, là nền tảng của phép “hô hấp” của Đạo pháp. Bắt đầu nhé..

Tải doanh bão phách nhất. Năng vô ly hồ? Chuyên khí trí nhu. Năng anh nhi hồ?
Địch trừ huyền lãm. Năng vô tỳ hồ?

Dịch nghĩa:
Hồn và Phách tập trung làm MỘT
Không thể chia lìa, đặng không?
Hơi thở tụ lại, trụ ở Đan Điền,
Như trẻ sơ sinh, đặng không?
Gột rửa lòng ham huyền diệu,
Không còn chút gì, đặng không?

Bình chú:
1. Làm cho Hồn và Phách tập trung thành 1 thể không cho phép chúng tự do hành động. (Khống chế phần Hồn và Phách của tự nhiên, kiểm soát các hành động bản năng của chính mình).
2. Điều hoà hô hấp, khí tụ Đan Điền để hình thành Thái Cực (của chính mình) làm cơ sở, nền tảng Đạo thuật. (Ví dụ cụ thể: hãy bắt chước cách thở của trẻ sơ sinh, tức là gần với tự nhiên nhất, là phương pháp thở mà Mẹ thiên nhiên đã dạy cho trẻ sơ sinh).
3. Đừng để cho lòng vọng động, ham muốn vu vơ về những huyền diệu của Trời Đất thì sinh lực hao mòn. Khi đã “Huyền đồng vật ngã” - “Thiền sâu”, thì những vấn đề trên tự nó đã được giải quyết.

Trên đây là những lời khuyên về Đạo dưỡng sinh. Các vị Đạo gia phái Trường Sinh áp dụng phương pháp này để xây dựng thành phép “Trường Sinh Cửu Thị”.

Phép “Tĩnh Toạ” chủ trương “Hư Không” nên bắt đầu từ “Địch trừ huyền lãm” => “Chuyên khí trí nhu” => “Tải doanh bão phách Nhất”, mục tiêu cuối cùng là “Thiên Nhân Hợp Nhất”.

Vì vậy, gọi là thuật dưỡng sinh mà tựu trung bắt đầu là thuật dưỡng tâm, tâm và thân là Một. Tu dưỡng để có 1 thân thể không đau đớn, bệnh tật là có đủ điều kiện thuận tiện để có được 1 tinh thần mạnh mẽ. Đây là 2 “cơ sở hạ tầng”, liên quan mật thiết với nhau, để làm nền tảng xây dựng “cơ sở thượng tầng” cho các Đạo pháp sau này.

Hy vọng rằng trong số các bạn đọc bài này, sẽ xuất hiện vài vị tu chân. Như vậy là rất tốt đẹp rồi. Chúc các bạn may mắn.
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Từ luyện khí để lên trúc cơ mất bao nhiêu năm. Và sau đó là kết đan với nguyên anh như nào. Hoá thần đã là cao nhất chưa
Tất cả các bước đấy đều là “Luyện Khí” bạn nhé, chẳng qua họ chia ra thành nhiều công đoạn để người học dễ hình dung thôi.

Việc thứ hai là thời gian để đạt được các bước ấy thì tuỳ vào căn cơ của từng người, có những người có năng khiếu chỉ cần 2 năm đã đạt được “Tam Hoa Tụ Đỉnh”. Nhiều người không có năng khiếu, 3 năm vẫn loanh quanh ở bước “thổ nạp”.
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Đằng nào cũng không ngủ được, thôi thì chia sẻ với các bạn bài thứ hai. Bài này rất quan trọng, là nền tảng của phép “hô hấp” của Đạo pháp. Bắt đầu nhé..

Tải doanh bão phách nhất. Năng vô ly hồ? Chuyên khí trí nhu. Năng anh nhi hồ?
Địch trừ huyền lãm. Năng vô tỳ hồ?

Dịch nghĩa:
Hồn và Phách tập trung làm MỘT
Không thể chia lìa, đặng không?
Hơi thở tụ lại, trụ ở Đan Điền,
Như trẻ sơ sinh, đặng không?
Gột rửa lòng ham huyền diệu,
Không còn chút gì, đặng không?

Bình chú:
1. Làm cho Hồn và Phách tập trung thành 1 thể không cho phép chúng tự do hành động. (Khống chế phần Hồn và Phách của tự nhiên, kiểm soát các hành động bản năng của chính mình).
2. Điều hoà hô hấp, khí tụ Đan Điền để hình thành Thái Cực (của chính mình) làm cơ sở, nền tảng Đạo thuật. (Ví dụ cụ thể: hãy bắt chước cách thở của trẻ sơ sinh, tức là gần với tự nhiên nhất, là phương pháp thở mà Mẹ thiên nhiên đã dạy cho trẻ sơ sinh).
3. Đừng để cho lòng vọng động, ham muốn vu vơ về những huyền diệu của Trời Đất thì sinh lực hao mòn. Khi đã “Huyền đồng vật ngã” - “Thiền sâu”, thì những vấn đề trên tự nó đã được giải quyết.

Trên đây là những lời khuyên về Đạo dưỡng sinh. Các vị Đạo gia phái Trường Sinh áp dụng phương pháp này để xây dựng thành phép “Trường Sinh Cửu Thị”.

Phép “Tĩnh Toạ” chủ trương “Hư Không” nên bắt đầu từ “Địch trừ huyền lãm” => “Chuyên khí trí nhu” => “Tải doanh bão phách Nhất”, mục tiêu cuối cùng là “Thiên Nhân Hợp Nhất”.

Vì vậy, gọi là thuật dưỡng sinh mà tựu trung bắt đầu là thuật dưỡng tâm, tâm và thân là Một. Tu dưỡng để có 1 thân thể không đau đớn, bệnh tật là có đủ điều kiện thuận tiện để có được 1 tinh thần mạnh mẽ. Đây là 2 “cơ sở hạ tầng”, liên quan mật thiết với nhau, để làm nền tảng xây dựng “cơ sở thượng tầng” cho các Đạo pháp sau này.

Hy vọng rằng trong số các bạn đọc bài này, sẽ xuất hiện vài vị tu chân. Như vậy là rất tốt đẹp rồi. Chúc các bạn may mắn.
Chắc chắn một số bạn đọc sẽ có thắc mắc rằng, nền tảng Đạo pháp đã có ở trên rồi. Vậy thì, Đạo học và Đạo thuật học ở đâu?

Đầu tiên là Đạo học, muốn có năng lực càng lớn thì càng phải nâng cao trí thức. Đây là yêu cầu bắt buộc, không có con đường thứ hai hay con đường vòng (short-cut) nào hết. May mắn là trước khi Lão Tử đi về Phương Tây có để lại cho chúng ta quyển sách “Đạo Đức Kinh”. Đây chính là kinh sách nguyên thủy, chứa đựng toàn bộ tri thức và kinh nghiệm thực hành Đạo pháp của Lão Tử. Cuốn chân kinh này đã có hơn 5000 năm tuổi, nhưng ứng dụng của nó vào thực tiễn vẫn còn nguyên, do vậy gần như toàn bộ nội dung vẫn được người đời lưu truyền lại đầy đủ. Các bạn muốn phát triển tri thức, tăng cường Đạo học và hiểu rõ Trung Đạo thì hãy tìm đọc nhé.

Vấn đề thứ hai là Đạo thuật. Có 2 cách để các bạn học tập, 1 là tìm kiếm sư phụ, 2 là tự học hỏi.

Vế thứ nhất, ở Việt Nam hiện nay Đạo pháp suy vi, các vị sư phụ, Đạo sĩ chân chính còn rất ít. Những vị chân tu giờ đây tu hành lẫn trong dân chúng, phải cực kỳ may mắn mới có thể gặp và bái sư được. Đấy là chưa nói đến những kẻ lừa đảo, Đạo học cực thấp nhưng lại hay bày ra các trò mê tín dị đoan để mê hoặc lòng người.

Vế thứ hai là tự học, tự học hỏi kiến thức chưa bao giờ là dễ dàng cả. Nhất là những thứ trìu tượng và khó nắm bắt như Đạo pháp. Vậy thì dựa vào đâu để tu tập đây?

Chỗ dựa đầu tiên của bạn chính là “tri thức”
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Chắc chắn một số bạn đọc sẽ có thắc mắc rằng, nền tảng Đạo pháp đã có ở trên rồi. Vậy thì, Đạo học và Đạo thuật học ở đâu?

Đầu tiên là Đạo học, muốn có năng lực càng lớn thì càng phải nâng cao trí thức. Đây là yêu cầu bắt buộc, không có con đường thứ hai hay con đường vòng (short-cut) nào hết. May mắn là trước khi Lão Tử đi về Phương Tây có để lại cho chúng ta quyển sách “Đạo Đức Kinh”. Đây chính là kinh sách nguyên thủy, chứa đựng toàn bộ tri thức và kinh nghiệm thực hành Đạo pháp của Lão Tử. Cuốn chân kinh này đã có hơn 5000 năm tuổi, nhưng ứng dụng của nó vào thực tiễn vẫn còn nguyên, do vậy gần như toàn bộ nội dung vẫn được người đời lưu truyền lại đầy đủ. Các bạn muốn phát triển tri thức, tăng cường Đạo học và hiểu rõ Trung Đạo thì hãy tìm đọc nhé.

Vấn đề thứ hai là Đạo thuật. Có 2 cách để các bạn học tập, 1 là tìm kiếm sư phụ, 2 là tự học hỏi.

Vế thứ nhất, ở Việt Nam hiện nay Đạo pháp suy vi, các vị sư phụ, Đạo sĩ chân chính còn rất ít. Những vị chân tu giờ đây tu hành lẫn trong dân chúng, phải cực kỳ may mắn mới có thể gặp và bái sư được. Đấy là chưa nói đến những kẻ lừa đảo, Đạo học cực thấp nhưng lại hay bày ra các trò mê tín dị đoan để mê hoặc lòng người.

Vế thứ hai là tự học, tự học hỏi kiến thức chưa bao giờ là dễ dàng cả. Nhất là những thứ trìu tượng và khó nắm bắt như Đạo pháp. Vậy thì dựa vào đâu để tu tập đây?

Chỗ dựa đầu tiên của bạn chính là “tri thức”
Viết tiếp nhé, các bạn thông cảm, rảnh rỗi cái là viết liền.

Chỗ dựa đầu tiên của bạn chính là “tri thức”, qua thời gian và rất rất nhiều lần vướng phải sai lầm, con người hiện đại đã rút ra được rất nhiều bài học kinh nghiệm và tinh thần của chúng được cô đọng trong sách, đặc biệt là các loại sách nâng cao của “Toán cao cấp, Vật lý lý thuyết và Hoá học”. Rất nhiều các hiện tượng tự nhiên thú vị đã được các nhà khoa học lỗi lạc cô đọng lại thành các công thức, bài giảng ngắn gọn.

Chỗ dựa thứ hai chính là đồng môn, vào thời buổi mạt Pháp, không có nhiều sự lựa chọn, cũng như không có nhiều người sẵn sàng giúp đỡ bạn. Vậy thì hãy chủ động xây dựng các mối quan hệ, đồng thời chia sẻ cả những hiểu biết, và những vướng mắc của mình. Đây là cách giúp các bạn nhanh chóng vượt qua các thử thách.

Tuy nhiên, tôi cũng xin nói thẳng, sau khi trải qua các thử thách cơ bản, bắt đầu tiến vào con đường Trung Đạo, bạn hãy sẵn sàng tâm lý phải “tự lực cánh sinh”, tự mình đương đầu với các thử thách. Tới giai đoạn này, kể cả các bạn có sư phụ, các vị ấy cũng sẽ để bạn “tự bơi”. Tại sao ấy à? Đơn giản lắm. Tại vì bạn đã trưởng thành, có lập trường và cách nhìn của cá nhân bạn. Nói cách khác là bạn tự chịu trách nhiệm với các phát ngôn và hành động của chính mình. Chỉ có như vậy bạn mới tiến xa được.

Điều cuối cùng tôi muốn lưu ý các bạn, ấy là pháp môn của các môn phái là khác nhau, do vậy pháp chú và thuật pháp cũng khác nhau. Nếu đã chọn môn phái thì hãy kiên trì theo đuổi, nếu chưa thì hãy suy nghĩ thật kỹ càng. Bởi vì hậu quả có thể rất nặng nề đấy.

Bài kế tiếp: “Thành Tiên không được phải thành Thần”.
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Bài đặc biệt: Thành Tiên không được phải làm Thần

Nội dung bài viết như tiêu đề, đây là một nỗi đau của những người tu luyện Tiên Đạo. Nhưng khác với những nỗi đau đớn bình thường, đây là nỗi đau khổ kéo dài vĩnh viễn, không biết đến bao giờ mới chấm dứt được, họa may chỉ còn trông chờ vào tạo hoá..

Nghe đáng sợ quá phải không? Đúng vậy đấy, sau khi đọc bài này và tự chiêm nghiệm với những trải nghiệm của chính mình, các bạn hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi quyết định bước đi trên con đường tu Đạo. Đã quyết định rồi thì quyết không hối hận. Bắt đầu nhé…

Mục tiêu tối thượng của các vị đạo sĩ tu Tiên chính là hy vọng vào 1 ngày nào đó, có thể “ghi tên vào sổ Tiên”, Thiên Nhân Hợp Nhất vượt qua những khảo nghiệm của trời đất, đạp mây về Trời. Vậy thì Trời ở đây là gì? Theo các tài liệu được lưu truyền cho đến bây giờ, thì trời cao có tất cả 12 tầng trời (tương ứng “phía dưới” có 12 tầng Địa Ngục). Nói là 12 tầng trời nhưng các bạn nên suy nghĩ theo chiều hướng có 12 thế giới thì sẽ chính xác hơn.

Đây là 12 thế giới của Tiên Giới, mà mỗi thế giới do 1 nhóm các vị Thượng Tiên quản lý (Cụ thể hơn nữa thì các bạn cần nghiên cứu thêm Kinh Dịch để dễ hình dung nhé). 12 thế giới này nằm trong số 36 chòm sao trên trời, mà 12 Địa Ngục cũng nằm trong 36 chòm sao này. 1 dương, 1 âm luôn luôn song hành, bổ sung, tương trợ cho nhau.
Trong 12 thế giới này có cái gì? Muốn trả lời câu hỏi này lại là một vấn đề rất khó.. Tại sao lại khó trả lời?
- Thứ nhất là căn cứ vào con đường mà bạn chọn, tương ứng bạn sẽ có thể “nhìn thấy” thế giới ấy thông qua “Thiên nhãn” của chính bạn (bằng cách Thiền sâu hoặc được mời đến qua mộng Tiên).
- Thứ hai là căn cứ vào năng lực/thực lực của chính bạn, tương ứng bạn có thể “đi càng xa, càng cao” vào thế giới ấy. Mỗi lần trải nghiệm thì bạn càng hiểu rõ ràng hơn, sâu sắc hơn con đường và thế giới mình đã chọn.
- Thứ ba là đến giai đoạn này, hầu hết các vị Đạo sĩ, thiền sư đều không muốn chia sẻ về các thế giới này. Tại sao ư? Vì hành động này chính là tiết lộ “Thiên Cơ”. Mỗi 1 thế giới ấy đều có tôn ti trật tự rõ ràng, đều có “pháp luật” hay còn gọi là giáo điều được quy định rõ ràng, muốn trở thành một phần của thế giới ấy, bạn cần phải tôn trọng và tuân thủ “pháp luật” của nó.

Đến đây có bạn sẽ hỏi, nếu tôi không tuân thủ thì sao? Không sao, nếu bạn không tuân thủ theo các quy định của pháp môn, trước tiên bạn sẽ bị “trục xuất”, tức là không thể liên lạc được với các vị sư phụ ở thế giới ấy nữa. Không thể nghe/học tập tiếp Đạo pháp của thế giới ấy.

Có bạn sẽ nói là: “không sao, tối thiểu thì ta cũng có căn cơ Đạo pháp rồi, tự tu luyện cũng có thể thành tài”. Không sai, bạn vẫn có thể tự tu luyện nhưng có 2 điều bạn cần lưu ý, như sau:
- 1 là gặp những lúc khó khăn, gặp những đoạn thắt nút, gặp phải “Quỷ Luyện”, sẽ không có ai hỗ trợ bạn. Bạn phải tự vượt qua, trên con đường cô độc ấy, chắc là các bạn cũng hình dung sơ sơ nó vất vả thế nào rồi. Có chắc là bạn có thể đi được hết con đường ấy không?
- 2 là nếu bạn không vượt qua được các thử thách, các trải nghiệm thì 1 là suốt đời chẳng có tiến bộ, cứ thế trải qua 1 kiếp vô vọng. 2 là đi sai đường, nhập Ma lúc nào không biết, đến lúc phải đối mặt với các thực thể hùng mạnh do Âm Ti cử đến để thu thập linh hồn của chính bạn.. có lẽ lúc ấy mọi chuyện đã quá muộn.
Tôi nghiêm túc nhắc lại, con đường solo này không dành cho những người xuất sắc. Nó chỉ dành cho những người cực kỳ xuất sắc mà thôi.

Lan man thế cũng đủ rồi, quay lại với 12 thế giới kỳ diệu ấy nhé. Trở thành 1 Tiên Nhân, tự do tự tại trong thế giới ấy, thậm chí còn có thể tự do qua lại giữa các thế giới ấy là ước mơ của biết bao nhiêu Đạo sĩ tu hành trên con đường Tiên Đạo. Tuy nhiên, đề tài ngày hôm nay là: “Thành Tiên không được phải làm Thần” là có ý gì?
Nói đơn giản là những người trong quá trình tu hành Tiên Đạo, có đạo hạnh rất cao, có thể thi triển được “Ngũ hành thuật pháp”, thậm chí có thể “nhìn thấu Âm Dương”.. nhưng vì các hành động sai trái của họ, hay lạm dụng thuật pháp gây ra tai họa mà sẽ bị Tiên Giới từ chối, bắt buộc phải trở thành 1 vị Thần, phải chịu sự sai khiến của các Tiên Nhân mà “hành thiện, trừ ác” tích góp công đức để mong 1 ngày được chuyển kiếp thành Tiên.

Có rất nhiều các vị Thần, do danh phận quá cao, năng lực quá lớn, thậm chí còn không bao giờ được chuyển kiếp thành Tiên, vĩnh viễn là các vị Thần. Vẫn luôn luôn được các vị tiên nhân trọng vọng, có thể không chịu ai sai khiến nhưng cũng không được xếp vào bảng Tiên, chịu rất nhiều thiệt thòi.

Còn có rất rất nhiều các vị thần nhỏ, phải chịu sai khiến, thậm chí còn bị các Yêu đạo lợi dụng, khống chế làm việc ác. Bạn thử nói xem, đã vậy thì đến bao giờ mới có tên trong sổ Tiên?

Các vị thần nhỏ này ở đâu ra? Xin thưa với các bạn họ chính là các Đạo sĩ tu hành Tiên Đạo, nhưng không giữ được mình, có chút đạo hạnh đã đương đương tự đắc, nghĩ rằng mình quá giỏi rồi. Kết quả là phải chịu “Thiên Kiếp”, nhẹ thì không bệnh mà chết, nặng thì sét đánh tan thây (Lôi Kiếp). Chết đi rồi mà linh hồn không được nhận về Tiên Giới, U Linh Thành cũng không chứa chấp, không đưa đi đầu thai. Làm cô hồn dã quỷ thì quá mất mặt, chỉ còn cách chấp nhận làm các vị Thần nhỏ, chịu nhiều sai khiến, lại mất đi tự do để tích đức.. Bạn nghĩ xem, các vị ấy có đúng là rất khổ tâm không?

Chính vì thế mà câu nói: “Thành Tiên không được phải làm Thần” là lời răn cực kỳ nghiêm túc và khắc nghiệt với các vị Đạo sĩ tu hành Tiên Đạo. Nói tu hành là không dễ dàng, các môn phái khác tôi không dám “lộng ngôn”, nhưng Tiên Đạo là như vậy. Thành công chỉ đến với những người thực sự cực kỳ nghiêm túc với chính bản thân mình.
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt
Tiên Đạo - Đạo của người Việt cổ

Trước khi Đạo Phật du nhập vào Việt Nam thì người Việt cổ đã có Đạo Mẫu, (việc này sử sách đã có ghi cụ thể rồi nên tôi không đi sâu vào nữa, các bạn nào chưa đọc có thể tìm hiểu thêm trên mạng nhé).

Đạo Mẫu về cơ bản là một nhánh của Đạo Thần Tiên, Tứ Bất Tử cũng là 4 vị thần tiên đại diện cho Tiên Đạo. Có một truyền thuyết nói rằng, sau cuộc Phong Thần Diễn thì Hồng Quân Lão Tổ đã giảng hoà cho 3 vị đệ tử rồi cưỡi mây đi về Phương Nam, không quay trở lại Phương Bắc nữa.

Phải chăng riềng mối Đạo Thần Tiên của người Việt cổ được bắt đầu từ đây? Thời gian trôi qua, bãi biển hoá nương dâu.. Bây giờ thì chẳng còn tài liệu nào ghi chép lại việc này, tiếc thay..

Trong lịch sử của người Việt, rất nhiều lần Tiên Đạo suy vi. Lý do thì có nhiều, nhưng tựu trung lại thì có 2 lý do chính.
Một là do ngoại bang xâm lược, giết người biết chữ, hủy bia đốt sách.. Hai là do chính người Việt cổ, sau những giai đoạn đứt gãy văn hoá, đã không còn tài liệu, tư liệu cụ thể dưới dạng chữ viết, văn tự (các hình thức lưu trữ kiến thức văn minh), mà phải dựa vào trí nhớ là hình thức lưu trữ, lưu truyền thông tin dễ sai lệch, hiểu nhầm..

Kết quả là Tiên Đạo suy vi, các vị chân tu đều bị giết hại, đến tục gia đệ tử cũng không tha.. Có bạn sẽ hỏi, vậy chẳng lẽ người Việt cổ chịu chấp nhận đánh mất niềm tin tôn giáo như vậy sao? Không.

Trong lịch sử của người Việt cổ đã có rất nhiều các vị chân tu có mong muốn chấn hưng Tiên Đạo. Mà trong đó có một người rất nổi tiếng, có thể nói là nổi tiếng đến tận bây giờ, nhưng tiếc thay là rất ít người biết đến mong muốn của ông. Tên của ông là Trần Hưng Đạo.

Về chiến công trận mạc thì chắc chắn là nhiều bạn đã biết rồi. Nhưng chắc chắn nhiều người không biết rằng, sau những chiến công hiển hách ấy, vua Trần Nhân Tông đã cho lập bia ghi rõ công đức của ông ngay khi ông còn sống (Phong Thần ngay khi còn sống). Và có một chi tiết khá thú vị là trên bia, nhà vua gọi ông là “Thượng Phụ” - “tức Khương Tử Nha”.

Chi tiết này chứng tỏ rằng, nhà vua biết Trần Hưng Đạo là một Đạo sĩ tu hành Tiên Đạo. Ví ông giống như Khương Tử Nha, cũng có nghĩa tôn vinh ông có năng lực của một vị thần tiên đắc đạo.

Ông lấy tên là Trần Hưng Đạo với mong muốn chấn hưng Đạo pháp. Chỉ tiếc rằng đến bây giờ chẳng có mấy người còn biết/nhớ đến mong muốn của ông..
 

Tu sĩ Từ

Yếu sinh lý
Chủ thớt

U Linh Thành - Tháng Cô Hồn - Lễ hội

Chắc chắn là rất nhiều bạn đã biết thời điểm này chính là tháng cô hồn, một khoảng thời gian đặc biệt trong năm.
Trong tháng này, Âm Ti sẽ mở cửa Quỷ Môn Quan để cho các linh hồn được quay trở lại dương gian, về thăm người thân, đồng thời cũng là thể hiện ân đức của Đạo Trời.. nhưng có rất nhiều người không biết, tại sao Âm Ti lại mở cửa Quỷ Môn Quan? Tại sao các linh hồn lại được về thăm thân? Tại sao ngay cả các cô hồn dã quỷ cũng được ân xá dịp này?

Ấy là vì, đây chính là thời điểm Vương Mẫu Nương Nương mở tiệc Bàn Đào, khoản đãi tất cả các vị thần tiên theo Đạo Thần Tiên (bao gồm cả Xiển Giáo, Triệt Giáo), mời cả các vị Địa Tiên, các vị thần cai quản Âm Ti.

Có thể nói đây là một lễ hội cực kỳ quan trọng của Đạo Giáo, có lẽ chỉ sau ngày Tết mà thôi. Chính vì thế mà tất cả các vị thần tiên đều sắp xếp công việc để đi tham dự, các vị thần cai quản Âm Ti sau hơn nửa năm vất vả cũng được “xả xì trét”, do vậy họ cho phép mở cửa Quỷ Môn Quan.

Trước là cho phép tất cả quỷ sai được đến các cung, quán để hưởng đồ công đức mà người dân dâng tặng (quan được nghỉ nên lính cũng được nghỉ theo). Sau là cho phép tất cả các linh hồn được trở về thăm người thân (lưu ý là các linh hồn có tội nghiệt không quá nặng), để thể hiện sự nhân từ của trời đất. Do vậy, vào thời gian này, nếu những ai theo Đạo Giáo đều hàng ngày tổ chức cúng vật thực cho các linh hồn. (Đấy là lý do vì sao mình không online thường xuyên được).

Trong thời gian này, rất nhiều người nhân tiện, lên các cung, quán (ở Việt Nam giờ chẳng còn 1 cung nào, chỉ còn một số quán thôi, hơi buồn) để.. “nói nhỏ” hối lộ cho quỷ sai Âm Ti và U Linh Thành.

Một là tổ chức làm mâm cỗ, vật thực, hoa quả, lại đốt tiền giấy các kiểu để.. hỏi thăm tin tức của người thân (nếu chưa đi đầu thai), đồng thời là.. kết thân với U Linh Thành

Hai là xin xỏ các kiểu, tích cóp chút âm đức để sau này chết đi rồi còn được chút ưu đãi, hoặc là trong năm có gì vướng mắc thì cũng xin xỏ các kiểu để xin hướng dẫn. Nói chung khoản này thì các ông chủ hay làm, chứ dân thường thì ít.

Ba là một số người, có người thân làm việc ở U Linh Thành, nhân tiện gửi đồ chăm sóc, hỏi thăm các kiểu. Cũng có nhiều người được linh ứng, được báo mộng các kiểu trong dịp này.

Quay lại một chút với những người tu hành như mình. Ngoài việc tổ chức lễ, cúng đồ ăn, cho tiền lộ phí các kiểu cho các linh hồn bất hạnh. Thì việc quan trọng hơn là báo cáo công việc tu hành với các vị thần tiên (viết sớ), và đặc biệt là đi học cao cấp.

Thời gian này, tất cả các tầng trời đều mở cửa đón các đạo hữu tu hành, nhưng chưa có tên trong sổ Tiên được phép tiến vào trong để trực tiếp nghe một số vị thần tiên hướng dẫn, thuyết Pháp, giải đáp các thắc mắc.. nói chung là rất nhiều thứ hay. Phần lớn kiến thức của mình đều được học trong khoảng thời gian này.

Cao điểm nhất là Rằm, cũng tức là ngày chính thức của lễ hội Bàn Đào. Buổi sáng, các vị đạo hữu may mắn, công đức tu hành viên mãn sẽ được ghi tên vào sổ Tiên, chính thức được tiến vào các tầng trời để tu hành tiếp. (báo mộng, nhìn nhà nào tự nhiên tổ chức yến tiệc linh đình, có bạn thờ thần tiên là biết ngay).

Đến trưa, Ngọc Hoàng Thượng Đế và Vương Mẫu Nương Nương chính thức dự tiệc, sẽ có ban thưởng cho các vị thần tiên làm việc chăm chỉ. Thường sẽ xuất hiện điềm lành ở các khu vực này, kiểu như mây hồng, hoặc là 9 đám mây kết hình rồng tụ vào 1 ngọn núi nào đấy, hoặc là mưa chỉ xuất hiện ở 1 phạm vi cung, quán nào đó không mưa ra ngoài vân vân và mây mây

Đến khoảng cuối chiều là tan tiệc Bàn Đào, các vị thần tiên quay trở về với động phủ, cung, quán của mình. Lúc này trời đổ mây, rất hay có mưa to, khắp mọi nơi. Ở dưới hạ giới thì các quỷ sai cũng quay trở về vị trí của mình, đâm ra khu vực rừng núi lúc này rất hay có sương mù, có Thiên nhãn nhìn là biết ngay. Các linh hồn, cô hồn dã quỷ cũng phải quay trở về Âm Ti - U Linh Thành, nếu không sáng ngày hôm sau, mặt trời chiếu ánh sáng vào sẽ bị tan biến hết.

Bây giờ mới là khoảng thời gian giữa của lễ hội Bàn Đào. Phần này tôi viết riêng cho các bạn đang tu tập. Đây là thời điểm cực kỳ tốt để tu hành, nếu có duyên các bạn sẽ gặp được rất nhiều “sư phụ qua đường” hướng dẫn hoặc giải đáp cho các thắc mắc. Do vậy, hãy cố gắng tận dụng tốt nhé
 
Bên trên